Khi
nói về lịch sử, đại văn hào người Pháp Victor Hugo từng khẳng định: Lịch sử là
tiếng vọng của quá khứ trong tương lai và là ánh phản chiếu của tương lai trên
quá khứ. Để tiếng vọng đó có ý nghĩa, giá trị với hiện tại và tương lai, đòi
hòi thế hệ đi sau không chỉ có thái độ chuẩn mực, phương pháp khoa học khi nhận
định, đánh giá về các sự kiện, vấn đề của lịch sử, mà cần có ý thức thận trọng
khi phát ngôn, diễn giải về lịch sử.
Lịch
sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng nó luôn có quan hệ mật thiết với
hiện tại và tương lai. Do vậy, khi nhìn nhận về các sự kiện, vấn đề lịch sử
trước hết cần phải tôn trọng sự thật khách quan của lịch sử. Điều hiển nhiên
này tưởng như ai cũng biết, nhưng thực tế không phải ai cũng quan niệm, ứng xử
một cách chừng mực, đúng đắn. Có người do thiếu kiến thức lịch sử, chưa nghiên
cứu thấu đáo những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ nên khi xem xét về lịch sử
còn hời hợt, phiến diện. Nhưng cũng có người do thiếu nhãn quan chính trị chuẩn
mực nên có những phát ngôn chưa đúng về lịch sử, thậm chí nhìn nhận lịch sử
bằng con mắt hẹp hòi, đánh giá lịch sử bằng thái độ bôi nhọ, xuyên tạc. Đây là
một trong những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về chính trị tư tưởng mà Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra.
Thời
gian qua, không khó để nhận diện những thái độ hạ thấp, “phủ bụi” vào lịch sử.
Ví như có người ngộ nhận khi cho rằng, “Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam chỉ
cần “trung với nước, hiếu với dân” là đủ, là đúng với tinh thần của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ ra"(!). Vì khi đưa ra lý do này, họ viện cớ rằng, 6 chữ
“trung với nước, hiếu với dân” thêu trên lá cờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao
tặng cán bộ, giáo viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục
quân 1) trong ngày khai giảng khóa I (26-5-1946) cũng là lời Bác nhắc nhở quân
đội nói chung”. Nhưng có một sự thật lịch sử cần phải nhắc lại, đó là trong dịp
kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam 22-12-1964, Bác Hồ đã khẳng định:
“Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Vì vậy, trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, với nhân dân không chỉ thể hiện, phản ánh bản chất sự thật lịch
sử ra đời, trưởng thành, phát triển của QĐND Việt Nam, mà còn là một trong
những cội nguồn và động lực lịch sử làm nên những chiến công hiển hách của Quân
đội ta, một quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, rèn luyện.
Cách
đây chưa lâu, dư luận từng xôn xao trước việc một số nhà nghiên cứu từng đề
xuất bỏ cách gọi “ngụy quân”, “ngụy quyền” của chế độ Việt Nam cộng hòa. Nhân
cơ hội đó, một số người đã cho rằng, “việc công nhận Việt Nam cộng hòa như một
chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng nhằm hàn gắn những vết thương
của người Việt sau chiến tranh”. Nhìn nhận như vậy là chưa khách quan, chưa đúng với sự thật lịch sử. Vì thực tế, “ngụy quân”,
“ngụy quyền” tuy vẫn mang dòng máu đỏ da vàng của người Việt, song lực lượng và
chế độ này ra đời không đại diện cho tinh thần dân tộc chân chính, đi ngược lại
lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam và đó chỉ là lực lượng tay sai, chế độ
bù nhìn cho các thế lực ngoại bang xâm lược, giày xéo giang sơn bờ cõi Việt. Do
không mang tính chính danh nên họ không đủ tư cách để đứng ngang hàng với QĐND
Việt Nam và chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-một quân đội cách mạng và một chế
độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một sự thật lịch sử không thể
xuyên tạc.
Chiến tranh là nỗi ám ảnh ghê ghớm nhất của con người. Dân tộc
Việt Nam luôn mang khát vọng “đời ta thích hoa hồng”, nhưng “kẻ thù buộc ta ôm
cây súng”. Lấy chiến tranh chính nghĩa để kiên quyết chống lại chiến tranh phi
nghĩa là đòi hỏi tất yếu của lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ 20. Tuy vậy, sau
khi chiến tranh kết thúc, Đảng, Nhà nước ta chủ trương “gác lại quá khứ, hướng
tới tương lai”, tích cực thu hẹp bất đồng, tăng cường đối thoại và mở rộng vòng
tay chào đón những người từng ở “phía bên kia chiến tuyến” hướng về Tổ quốc,
qua đó nhằm củng cố, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã lùi xa hơn 42 năm. Chúng
ta không bao giờ có ý khoét sâu vào nỗi đau của các thân nhân có con em hy
sinh, tử nạn trong cuộc chiến tranh này, nhưng nói thế không đồng nghĩa với
việc xóa nhòa sự thật lịch sử của cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt
Nam. Vì từng có ý kiến cho rằng, “chiến tranh đã thuộc về quá khứ thì cho nó
nằm yên một chỗ, không nên khơi gợi lại làm gì vì làm như vậy dễ tổn thương đến
những người tham gia cuộc chiến, gây bất lợi cho vấn đề hòa giải dân tộc trong
tình hình hiện nay”(!). Ý kiến này mới thoạt nghe tưởng như không có gì đáng
nói, nhưng thực chất đây là sự xuyên tạc bản chất chính nghĩa của cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc; đánh đồng đối tượng tham gia cuộc chiến. Bởi sự thật
lịch sử đã chứng minh rằng, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đại diện cho lực
lượng yêu nước tiến bộ, yêu hòa bình của dân tộc Việt Nam nên đã chiến đấu anh
dũng, quật cường để mang lại thống nhất, độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc
cho nhân dân; còn Quân lực Việt Nam cộng hòa chỉ là lực lượng tay sai, là “lính
đánh thuê” cho một thể chế chính trị không có chính danh, không được đông đảo
nhân dân đồng tình, ủng hộ. Vì vậy, sự thất bại, sụp đổ của lực lượng, chế độ
mang bản chất “ngụy” ấy là tất yếu khách quan và là sự thật lịch sử không thể
chối cãi.
Khi muốn xem xét, đánh giá những sự kiện, vấn đề diễn ra trong
quá khứ, nhất là những sự kiện, vấn đề ấy liên quan đến vận mệnh quốc gia dân
tộc, liên quan đến lịch sử chiến đấu đau thương mà hào hùng của cả một quân đội
cách mạng và một cộng đồng dân tộc vì phẩm giá, lương tâm của thời đại thì
không được phép hời hợt, phiến diện, lại càng không được phép đánh tráo khái
niệm theo kiểu “mập mờ đánh lận con đen”.
Những trang sử vẻ vang về QĐND Việt Nam, về dân tộc Việt Nam anh
hùng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc sẽ mãi đồng hành, trường tồn
cùng lịch sử nước ta. Bởi đó là những trang sử được viết nên bởi những tấm lòng
trung kiên, cao thượng của cả một thế hệ cha ông đã tự nguyện cống hiến, xả
thân hết mình vì hòa bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc. Nên nhớ rằng, để non
sông nước Việt nối liền một dải như hôm nay, để hơn 93 triệu người dân Việt
đang hưởng cuộc sống bình yên như hôm nay, đã có gần 1,2 triệu người con ưu tú
của Tổ quốc mãi mãi không trở về, gần 825.000 người đã để lại một phần máu thịt
của mình trên chiến trường. Đó là chưa kể hơn 312.000 bộ đội, người tham gia kháng
chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học mà đến nay không chỉ bản thân họ, mà nhiều
con cháu họ vẫn còn chịu đựng bao nỗi đau dai dẳng từ cuộc chiến tranh phi
nghĩa do đế quốc Mỹ và ngụy quân, ngụy quyền gây ra. Đó cũng là một sự thật
lịch sử không được phép lãng quên.
Trong đạo lý truyền thống người Việt, bất hiếu với cha mẹ là tội
lỗi nặng nhất; vong ân bội nghĩa với thế hệ tiền nhân đã vun đắp, tạo dựng cho
cuộc sống hiện tại của mình là “cạn tàu ráo máng”; vô ơn với tổ tiên, cội nguồn
là kẻ chẳng ra gì, nếu không muốn nói là hèn mạt, đê tiện. Thế nên, với ai đó
còn có biểu hiện quay lưng lại quá khứ, phủ nhận lịch sử, xuyên tạc thành quả
cách mạng giải phóng dân tộc đã phải đổi bằng xương máu của hàng triệu con
người, không chỉ đi ngược lại với số đông, làm tổn thương đến chiều hướng phát
triển chân chính của lịch sử; mà còn làm vẩn đục những giá trị cao đẹp của lịch
sử Việt Nam. Như một nhà sử học đã ví von hình ảnh mà rất chí lý rằng: Khi ai
đó cố tình lãng quên quá khứ, “phủ bụi” vào lịch sử, tự họ đang bôi nhọ vào
chính gương mặt người đã sinh ra mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét