Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

NHẬN RÕ ÂM MƯU, ĐẬP TAN Ý ĐỒ BỌN PHẢN ĐỘNG LƯU VONG



Mùa xuân năm 1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng thì một bộ phận ngụy quân, ngụy quyền chạy ra nước ngoài và được các tổ chức đặc biệt của nước ngoài hậu thuẫn, giúp đỡ hình thành các cứ điểm người Việt lưu vong chống phá cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên từ trước đó, Mỹ đã tiên liệu ngày sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn sớm muộn rồi cũng sẽ đến, nên đã chuẩn bị sẵn một kế hoạch cho “hậu chiến”. Kế hoạch này gồm có 6 điểm chính là: Bao vây, cấm vận, cô lập Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”; Khuyến khích di tản vượt biên sang Mỹ để tập hợp lực lượng chống phá lâu dài; Tuyển chọn, huấn luyện, cài cắm gián điệp; Hậu thuẫn cho thế lực phản động trong nước, tập hợp tay sai chế độ cũ; Tuyển chọn, huấn luyện vũ trang người Việt lưu vong, tổ chức xâm nhập thực hiện ý đồ “ngoài đánh vào, trong nổi dậy”; Xây dựng căn cứ bàn đạp chiến lược ở nước gần Việt Nam để hỗ trợ bọn phản động lưu vong.
Thực hiện kế hoạch trên, đầu tháng 3-1975, hai con bài: Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy, sĩ quan không quân ngụy lưu vong tại Pháp đã về Sài Gòn để vận động Nguyễn Văn Thiệu cho Trần Văn Hữu tham gia chính quyền, hòng cứu vãn chế độ tay sai. Tuy nhiên, chiến trường miền Nam chuyển biến quá mau lẹ, nên âm mưu của chúng không thành. Trong thời gian ở Sài Gòn, Túy và Hạnh đã móc nối với một số đầu sỏ ngụy quân, ngụy quyền, đảng phái phản động để tập hợp lực lượng, chờ thời cơ. Trước ngày 30-4-1975, Túy và Hạnh đã trở lại Pháp, thành lập cái gọi là “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam ”. Với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch, Lê Quốc Túy được sử dụng một hải cảng, một đảo nhỏ ở nước ngoài để làm căn cứ tập kết. Túy cũng đã lập “tổng hành dinh” cùng hai mật cứ tại nước ngoài. Hai mật cứ của Túy có đủ điều kiện để đào tạo, huấn luyện, diễn tập, hành quân, biên chế thành các phân đội nhỏ và được trang bị khá đầy đủ.
Cuối năm 1980, Lê Quốc Túy tổ chức cho nhóm biệt kích phản động đầu tiên xâm nhập Việt Nam gồm 23 tên. Theo kế hoạch, chúng đi bằng đường bộ qua Cam-pu-chia, rồi xâm nhập vào tỉnh An Giang. Toán biệt kích đã bị ta phát hiện, truy lùng và bắt sống gần hết. Trung tuần tháng 5-1981, Túy lại tiếp tục tung nhóm biệt kích thứ hai về Việt Nam gồm 10 tên, đi bằng đường biển. Với sự giúp đỡ của quần chúng nhân dân, trong 2 ngày truy lùng, ta đã tóm được 9 tên, cùng với hơn 3,5 tấn vũ khí trang bị. Tên nhóm trưởng do ngoan cố chống cự nên bị tiêu diệt. Qua đấu tranh, nhóm biệt kích đã khai ra toàn bộ kế hoạch đột nhập của chúng, âm mưu, mật thư, ký ám hiệu liên lạc với các đối tượng trong nội địa. Từ những thông tin này, ta mở tiếp kế hoạch chống lại địch mang bí số CM12. Ròng rã 3 năm thực hiện kế hoạch, ta đã chặn đứng 17 toán biệt kích xâm nhập vào nội địa, bắt và tiêu diệt hàng trăm tên. Trong số những tên bị bắt có cả Mai Văn Hạnh. Ta thu được hàng trăm tấn vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh, phá tan hàng chục tổ chức phản động trong nước. Thắng lợi của Kế hoạch CM12 đã làm thất bại một phần chiến lược phá hoại nhiều mặt của địch đối với cách mạng Việt Nam, đồng thời làm phá sản toàn bộ âm mưu tập hợp bọn phản động lưu vong, huấn luyện vũ trang, xâm nhập từ bên ngoài vào, để làm hậu thuẫn cho bên trong của các thế lực thù địch.

NHIỆM VỤ 47- “MỆNH LỆNH TỪ TRÁI TIM”



Việt Nam với 62,7% người dân sử dụng, internet đang là mảnh đất mầu mỡ để một số các tổ chức, cá nhân có tư tưởng thù địch, cơ hội chính trị khai thác, sử dụng xuyên tạc sự thật về Việt Nam. Thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, từ việc chỉ nói suông cho đến kích động, dàn dựng theo kiểu “rạch mặt ăn vạ” để vu khống các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, môi trường.......
Tuy nhiên, chiêu bài của chúng không có hiệu quả do thường xuyên bị vạch mặt, mọi luận điệu của chúng bị bẻ gẫy, sự thật bị phanh phui, lôi ra ánh sáng một cách ê chề. Đó là vì trong các tổ chức chính trị, xã hội và quần chúng nhân dân ta luôn có tinh thần cảnh giác cao độ trước các thông tin sai lệch, đến nỗi, trong tư duy của người Việt đã hình thành chất miễn dịch đối với các quan điểm sai trái, cơ hội trên không gian mạng.
Con số mà theo thống kê được một số báo đăng tải là có 10.000 người đấu tranh trên không gian mạng chỉ là hạt nhân, trong phạm vi Quân đội, chủ yếu là kiêm nhiệm, tự nguyện. 10.000 người còn quá ít so với 62,7% người dân sử dụng internet. Đối mặt với các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tuyên truyền các quan điểm sai trái là hàng triệu người đang góp phần chiến đấu để bảo vệ tư tưởng, văn hóa Việt Nam. Không có ngân sách nào trả cho họ làm việc đó nhưng đó là mệnh lệnh từ trái tim họ đối với Tổ quốc.
Do thường xuyên bị lật tẩy những chiêu trò trên internet trong thời gian vừa qua nên chúng ra sức tìm cách xuyên tạc nhằm gây hoang mang dư luận mà thôi./.

Đấu tranh, nhận thức đầy đủ về Đại án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm



Sau 14 ngày từ ngày 8/01 đến 21/01/2018, TAND Hà Nội mở phiên tòa xét xử ông Đinh La Thăng và 21 người trong vụ án Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo (điều 165 Bộ luật Hình sự 1999) và Tham ô tài sản (điều 278 Bộ luật Hình sự 1999) xảy ra tại Tổng công ty cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC.
          Nắm bắt được dư luận cũng như nhu cầu tìm hiểu thông tin của người dân về “Đại án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm”, một số báo chí nước ngoài như Reuters, AFP, Financial Times, AP, Washington Post của Mỹ, Dailymail của Anh, Deutsche Welle của Đức, South China Morning Post của Trung Quốc đều dẫn nguồn tin từ các tờ báo lớn tại Việt Nam để đưa tin một cách khách quan, trung thực những sai phạm nghiêm trọng của ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và các đồng phạm, ngoài ra còn nhấn mạnh ông Đinh La Thăng là cựu Ủy viên Bộ Chính trị đầu tiên của Việt Nam phải ra hầu tòa, thể hiện nỗ lực lớn trong cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam. Đồng thời đưa ra những cảnh báo nghiêm khắc rằng sẽ không có vùng cấm trong chiến dịch chống tham nhũng, cho dù họ là ai, họ giữ vị trí nào, cũng sẽ bị đưa ra xét xử.
Song bên cạnh đó các phần tử phản động trong nước, cùng số lưu vong ở nước ngoài tiếp tục qua các trang thông tin cá nhân như (Gmail, Yahoo, Facerbook, Blogger, Zalo..) Bằng các chiêu trò tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả mạo, sai lệch, biến có thành không, biến không thành có, thật giả lẫn lộn, để lôi kéo, hướng lái dư luận ngả theo quan điểm sai trái của các thế lực thù định, phản động mà người đọc khó kiểm chứng hết được, ngoài ra chúng ngụy tạo bằng chứng để vu cáo; tung tin thất thiệt, tạo dư luận xấu để quy chụp do đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đại án như:

- Ngày 19/01/2018 trên Blogger của đài Châu Á tự do RFA có bài “Lời xin lỗi của Trịnh Xuân Thanh, Đinh La Thăng và tư duy của quan chức Cộng sản”.

- Ngày 22/01/2018 trên Facerbook Việt Tân có bài “Những giọt nước mắt trước tòa” của tên Phạm Nhật Bình mục đính nói xấu lãnh đạo nhà nước; xuyên tạc Hiến pháp, pháp luật, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời kêu gọi đòi dân chủ, nhân quyền, kêu oan cho các đồng phạm của vụ án.

- Cùng ngày trên trang BBC Tiếng Việt đăng bài “Xử ông Thăng nhưng có xử được cơ chế?”, chúng cho rằng đây có lẽ là lần đầu tiên ở Việt Nam có những vụ án mà đã được thu xếp để điều tra, sau đó lập cáo trạng  đưa ra xét xử với thời gian ngắn kỉ lục. Nhất là với một vụ án được mệnh danh là "đại án", thì đây phải nói là một việc rất khác thường….

Quán triệt và nhận thức đầy đủ rằng sau bốn ngày nghị án, sáng 22/01, HĐXX TAND TP Hà Nội đã tuyên mức án 13 năm tù đối với bị cáo Đinh La Thăng, tù trung thân với bị cáo Trịnh Xuân Thanh và các mức án khác cho các đồng phạm trong vụ án vì.

Các bị cáo tội Cố ý làm trái và Tham ô tài sản là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, căn cứ nghị quyết 41 ngày 20/6/2017 về việc áp dụng BLHS 2015 theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì hành vi Tham ô tài sản của các bị cáo trong vụ án được áp dụng theo Điểm a, Khoản 4, Điều 333 BLHS 2017 sửa đổi sửa đổi bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018.
Đối với hành vi Cố ý làm trái: Các bị cáo trong vụ án hầu hết đều giữ các vị trí chủ chốt trong tập đoàn có tầm quan trọng hàng đầu của đất nước, được Nhà nước tin tưởng giao khai thác dầu khí, nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia và thực hiện dự án công trình trọng điểm trong đó có dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện dự án nêu trên, lợi dụng cơ chế đặc thù và nhiều ưu đãi khác của Nhà nước với PVN, vì các động cơ khác nhau, trên đó là lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ. Các bị cáo trong đó đứng đầu là bị cáo Đinh La Thăng đã thực hiện hàng loạt các hành vi sai phạm, làm trái các quy định của Nhà nước về lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng để tạo nguồn vốn tạm ứng gây thiệt hại cho PVN số tiền đặc biệt lớn.
Với hành vi Tham ô tài sản: Các bị cáo mà đứng đầu là Trịnh Xuân Thanh -người đại diện phần vốn góp của PVN tại PVC, đã cấu kết với nhau và các doanh nghiệp bên ngoài, lập hồ sơ, quyết toán khống để chiếm đoạt số tiền rất lớn. Hậu quả của vụ án là rất nghiêm trọng, số tiền thiệt hại 119 tỷ và 13 tỷ tham ô chưa nói hết tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án.
Ngoài các thiệt hại ban đầu đã được xác định, việc làm sai trái của bị cáo đã tăng kế hoạch gấp đôi thời gian, hụt vốn đầu tư hàng ngàn tỷ đồng… gây thất thoát vốn lớn của Nhà nước. Đây là những sai phạm điển hình của PVN trong những năm vừa qua, thời điểm mà bị cáo Đinh La Thăng giữ trọng trách cao của tập đoàn.
Thực tế cho thấy, bằng việc đầu tư, góp vốn tràn lan, dàn trải, thiếu kiểm soát, mang tính lợi ích nhóm, đã dẫn tới việc thất thoát vốn của Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng ở nhiều sự án khác, đó chính là tiền đề cho tham nhũng, lãng phí, thất thoát xảy ra tại tập đoàn PVN. Không những bị cáo Đinh La Thăng phải chịu trách nhiệm trong vụ án này mà còn kéo theo hàng loạt cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tập đoàn và các đơn vị thành viên của PVN. Đau xót hơn, trong đó nhiều người có chức sắc, nhiều người từng là các nhà khoa học trong ngành dầu khí, nhiều người từ đây đã tha hóa biến chất như Trịnh Xuân Thanh là điển hình.
Hành vi phạm tội của các bị cáo nêu trên là biểu hiện một phần tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu, cục bộ, lợi ích nhóm. Việc này không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế mà còn tác động xấu tới chính trị - xã hội, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Vì vậy việc đưa vụ án này ra xét xử thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thể hiện thượng tôn pháp luật, tỏ rõ thái độ không khoan nhượng, không có vùng cấm với bất kỳ ai, dù họ ở cương vị nào, khi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi liên quan đến tội phạm tham nhũng đều phải xử lý, tài sản phải được thu hồi, công lý phải được thực thi. Qua đó đã củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ta.

Nguyễn Quang A nhà “dân chủ” hay chỉ là kẻ “ăn cháo đá bát”



Sau hội nghị Trung ương 4 – khoá XII, Đảng ta quyết đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, lấy lại niềm tin nơi nhân dân, các thế lực phản động, thù địch, các nhà  hoạt động “dân chủ” coi đó là cuộc “thanh trừng nội bộ”, cuộc đấu đá lẫn nhau giữ những phe nhóm có lợi ích khác nhau trong Đảng chứ không phải là cuộc chiến chống tham nhũng, vân vân và vân vân... trong đó có ý kiến của ông tiến sĩ Nguyễn Quang A, thủ lĩnh tự xưng cái gọi là “Diễn đàn xã hội dân sự” khi nói về việc ông Đinh La Thăng bị bắt.
Trả lời phỏng vấn của đài RFA khi ông Đinh La Thăng, nguyên ủy viên Bộ chính trị, ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban kinh tế Trung ương vừa bị khởi tố, bắt tạm giam, ông tiến sĩ Nguyễn Quang A, thủ lĩnh tự xưng cái gọi là “Diễn đàn xã hội dân sự” đã bình luận: “Người ta viện cái cớ là ông ấy là mất 800 tỉ, và chuyện liên quan đến một cái công ty gì đấy của ông Trịnh Xuân Thanh. Những thông tin như thế thì người ta đã đồn ở Hà Nội này từ trước khi Đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản. Cho nên là theo tôi thì nó vẫn là tiếp tục của sự thanh trừng các bè phái. Cái chuyện tham nhũng, theo tôi thì nếu chống tham nhũng thật sự thì tất cả các ông ấy bị tù hết nếu làm nghiêm túc.”
Xin thưa với ông tiến sĩ Nguyễn Quang A rằng Đảng cộng sản Việt Nam chống tham nhũng, đó là một chủ trương, đường lối đúng đắn đã được xác lập qua Đại hội, các hội nghị của Đảng, đồng thời đó là ý nguyện của nhân dân, có thể nói đó là “ý đảng, lòng dân”. Việc bắt ông Đinh La Thăng hoàn toàn dựa trên những chứng cứ và tài liệu xác thực đã được điều tra, làm rõ. Có thể thấy việc xử lý ông Đinh La Thăng là thể hiện quyết tâm tuyên chiến với tham nhũng đến cùng, quyết tâm làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam chứ hoàn toàn không phải cái gọi là viện cớ như ông nói. Qua đây có thể thấy chính ông, ông tiến sĩ Nguyễn Quang A ạ, ông mới là người cố tình tạo ra cái cớ để xuyên tạc bóp méo sự thật để bôi nhọ lãnh đạo, hạ bệ uy tín của Đảng.
Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Lúc lâm thời Hồ Chí Minh từng nói một cách rất chân thật, đơn giản cho nhân dân hiểu được: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, …xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Thực tế lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và trải qua 30 năm đổi mới đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, sự lựa chọn của nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật tất yếu của lịch sử, chế độ chính trị ổn định, nhân dân ta ngày càng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vị thế và uy tin của nước ta ngày càng được khẳng định. Vậy thì tại sao một người như ông lại không bao giờ giám chấp nhận một sự thật hiển nhiên mà luôn tìm cách xuyên tạc, chống phá chế độ. Phải chăng chế độ này đối sử quá tệ bạc với ông?
Ông là một người được Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ăn học, và có được bảng thành tích đảng nể nhưng vẫn không làm ông hài lòng với cuộc sống, ông quyết định trở thành một “ngọn cờ dân chủ” đại diện cho giới “nhân sỹ trí thức” trong cái gọi là “phong trào dân chủ Việt Nam” thủ lĩnh cái gọi là “Diễn đàn xã hội dân sự” một phong trào tuyên bố “trao đổi và tập hợp  các ý kiến góp phần chuyển đổi thể chuế chính trị ở nước ta” để được các chính khách phương Tây, giới chống đối cả trong và ngoài nước săn đón. Như vậy, có thể nói, chính cái thói “tâm lý ham của mới, ham được ca tụng” đã đưa ông trở thành một kẻ “bội bạc đất nước” chứ hoàn toàn không phải chế độ này phụ ông.
Là công dân yêu nước, có trách nhiệm với Tổ quốc, chúng ta hãy luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với những âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, đoàn kết cùng nhau góp sức, phấn đấu vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

UY TÍN GIẢ, “CON SÂU LÀM RẦU NỘI BỘ”



         Uy tín là một hiện tượng tâm lý xã hội hình thành trên cơ sở phẩm chất, năng lực và giá trị xã hội của cá nhân (hay tổ chức xã hội) có tác dụng cảm hóa, thu hút, lôi kéo người khác, được mọi người thừa nhận, tin tưởng và tuân theo. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở cơ sở, uy tín có vai trò rất quan trọng, giúp cho cán bộ, đảng viên thu hút, cảm hóa quần chúng, nhân dân tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ quan, đơn vị, địa bàn phát triển.
Tuy nhiên, dưới những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, ảnh hưởng của “bệnh thành tích”, “bệnh hình thức”, nhiều cán bộ, đảng viên sẵn sàng tạo cho mình một “vỏ bọc uy tín” mà không dựa trên phẩm chất, năng lực và giá trị xã hội thật sự. Loại uy tín này trong những thời điểm nhất định có tác dụng che đậy những cái sai, cái xấu, vượt qua các đợt “tín nhiệm”, bầu cử. Nhưng khi bị phát hiện, nó không chỉ ảnh hưởng tới những cá nhân cụ thể, mà còn làm suy yếu tổ chức Đảng, chính quyền, ban hành những quyết định sai gây thiệt hại kinh tế, suy giảm lòng tin của nhân dân, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch mượn cớ chống phá Đảng, Nhà nước….
Để mỗi cán bộ, đảng viên chân chính và quần chúng nhân dân có cơ sở đấu tranh, ngăn chặn hiện tượng uy tín giả trong cán bộ, đảng viên, chúng ta cần chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh uy tín giả, cụ thể:
Thứ nhất là: Lạm dụng quyền uy bắt buộc người khác tuân theo
Có không ít người khi được giao trọng trách nào đó đã lạm dụng, coi đó là “tài sản” của mình, ban hành quyết định thiếu cân nhắc, thiếu tính toán. Khi người khác phát hiện những điểm sai sót, không thực hiện họ liền sử dụng quyền lực của mình ép buộc trắng trợn, dọa nạt (như đòi cho thôi việc, chuyển công tác…), yêu cầu phải thực hiện. Người kia vì sợ ảnh hưởng đến quyền lợi của mình mà không dám phản bác, lên án, thực hiện những việc sai quy định.
Thứ hai là: Mỵ dân. 
Bằng cách sử dụng những lời nói ngon ngọt hoặc ban cho những quyền lợi về kinh tế, chính trị nào đó, người cán bộ đã lôi kéo, dụ dỗ người khác thực hiện những hành động có lợi cho mình hoặc ủng hộ, “bỏ phiếu” cho mình trước tập thể.
Thứ ba là: Hạ thấp yêu cầu đối với cấp dưới.
Không ít trường hợp, người cán bộ cấp trên vì muốn tìm sự ủng hộ, quý mến của cấp dưới đã hạ thấp yêu cầu, trong công việc. Chẳng hạn như phân công công việc nhàn hạ, kiểm tra qua loa, đại khái, không để ý đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ…làm cho cấp dưới dễ nhầm lẫn đó là “tình cảm chân thành” mà bỏ qua các khuyết điểm, sai sót.
 Ngoài ra, một số cán bộ, đảng viên còn khéo léo thổi phồng thành tích của mình, đề cao khuyết điểm của người khác cũng là một trong những nguyên nhân gây nên uy tín giả. Nắm bắt được nguyên nhân nảy sinh uy tín giả giúp cho mọi người kịp thời phát hiện những “con sâu làm rầu nội bộ” ở địa phương, đơn vị, tổ chức mình, từ đó có cơ sở đấu tranh ngăn chặn, giữ vững sự ổn định, trong sạch của Đảng, bộ máy chính quyền, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, đây cũng là biện pháp “tự soi, tự sửa” từ bên trong, không tạo ra kẽ hở cho các thế lực thù địch xuyên tạc, bôi nhọ, chống phá Đảng, Nhà nước ta./.  

DÂN CHỦ THỰC SỰ CỦA NHÂN DÂN

Ở Việt Nam, Từ khi thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là chính đảng lãnh đạo và đưa đất nước ta đi hết từ thắng lợi này đến thằng lợi khác, là người mang tới hạnh phúc thật sự cho người dân Việt Nam, quần chúng nhân dân thực sự làm chủ cuộc sống của mình.
Trong thế giới hiện tại đang diễn ra sự đấu tranh giữa hai khuynh hướng: đa đảng và một đảng. Các nước theo chế độ đa đảng luôn tìm mọi cách, thực hiện mọi thủ đoạn để mang đa đảng, đa nguyên vào đất nước chỉ có một chính đảng. Chính người Mỹ thực hiện chế độ đa đảng, họ nói rằng nước Mỹ là một nước “tự do”, người dân được tự do biểu tình, báo chí tự do phanh phui những thông tin cá nhân…. Mỹ tự xưng là đa đảng, nhưng thực chất chỉ là một đảng, dù là đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa lên cầm quyền thì vẫn chỉ là để đảm bảo cho sự thống trị của giai cấp tư sản, chứ dân chủ đây không phải là dân chủ của đa số, không phải thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân”. Ở Mỹ sự phân biệt giàu nghèo rất rõ nét, tài sản phần lớn thuộc về giai cấp tư sản, nguời có quyền hành địa vị, còn số lớn người dân lao động là người nghèo. Còn ở Việt Nam người dân có cuộc sống bình đẳng, sự chênh lệch không lớn, người dân luôn được Đảng Cộng sản quan tâm giúp đỡ cải thiện cuộc sống hàng ngày, mọi người được sống trong hòa bình, ổn định.
Tuy nhiên các thế lực thù địch lại luôn có tư tưởng chống phá Việt Nam, chúng vu cáo, xuyên tạc vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, đòi đa nguyên đa đảng ở Việt Nam, chúng luôn muốn phủ nhận lịa mọi thành quả cách mạng mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt được. Đứng trước những sự chống phá của kẻ thù, Việt Nam vẫn không hề nao núng, luôn nêu cao tinh thần chính nghĩa, vạch trần bộ mặt, âm mưu thâm độc của kẻ địch, không để chúng có cơ hội lũng đoạn, làm hại nhân dân, đất nước.
Một số người dân Việt Nam đã có những suy nghĩ tiêu cực, những quan điểm lệch lạc cho rằng Việt Nam phải đa nguyên, đa đảng nhưng họ không thể nhận thức được rằng nếu đa nguyên, đa đảng sẽ làm cho đất nước luôn ở trong tình trạng bất ổn, các đảng chỉ có tranh giành, đấu đá nhau mà làm cho cuộc sống nhân dân không có chút sự bình yên, ổn định nào, làm đổ vỡ dần nền kinh tế, rơi vào thảm họa như ở một số nước mà Liên Xô và các nước Đông Âu là những bài học đắt giá. Nếu như các nước tư bản như Mỹ, Thái Lan…người dân ra đường lúc nào cũng lo sợ bị khủng bố, bị xả súng.. thì ở Việt Nam lại là một đất nước yên bình, chính trị – xã hội luôn được đảm bảo, người dân không lo sợ bị khủng bố mà yên ổn làm ăn, sinh sống. Thế giới này rất rộng lớn và Việt Nam chỉ là một đất nước nhỏ bé. Nhưng chúng ta luôn tự hào về quê hương, đất nước và mảnh đất nơi mình sinh ra. Một dân tộc với những trang sử hào hùng, những truyền thống dân tộc bất khuất, sự dân chủ, văn minh và một nền văn hóa tiên tiến đâm đà bản sắc

Tin tưởng, ủng hộ tuyệt đối chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước trong xử lý tham nhũng.


Trong thời gian gần đây, trên mạng xã hội đang có nhiều bình luận về vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm, với hiểu biết có hạn của mình tôi xin khái quát mấy vấn đề cơ bản như sau:
1 - Trước hết, chúng ta phải khẳng định đây là vụ án lịch sử và khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng ta rất đúng đắn, phù hợp với đông đảo tâm tư, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân.
2 - Phát hiện và xử lý tham nhũng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, vậy nên mỗi người đều có quyền nói tiếng nói của mình, nếu là người yêu nước chân chính sẽ có quan điểm mang tính xây dựng, trong vụ án này thể hiện công tội rõ ràng (điều này đã được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể).
3 - Chủ trương của Đảng là xử lý tham nhũng không có vùng cấm, như vậy vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm thể hiện tính thượng tôn pháp luật.
4 - Lợi dụng vụ án này, một số phần tử cực đoan, các thế lực thù địch và những người ủng hộ nhóm lợi ích (tình cảm, lợi ích, dốt nát và phản động) đang ra sức xuyên tạc, khóc mướn và cho rằng đây là cuộc đấu đá nội bộ, thậm chí đưa ông ta như một hiện tượng "thần thánh", ngưỡng mộ. Trong các nguyên nhân trên thì ta thông cảm khía cạnh gia đình, tình thân, còn lại những lý do khác đều đáng lên án và bác bỏ.
5 - Vụ án đang trong quá trình xét xử, mọi bình luận chỉ mang tính tương đối, bản án cuối cùng của Tòa án mới là kết quả cuối cùng của vụ án này, vậy nên đừng phán xét ai, đừng khẳng định điều gì.
6 - Hiện nay đang có hiện tượng hàng loạt nick ảo lập ra để cãi cho Đinh La Thăng trắng án, chúng ta phải khẳng định đây là chiêu trò phá hoại của các phần tử cực đoan đang âm mưu phá lò...
7 - Bọn phản động không yêu gì Đinh La Thăng, chúng càng muốn phá chế độ... Vậy nên, chúng ta hãy tỉnh táo, không để cho kẻ xấu dẫn dắt hoặc có phát ngôn, hành động đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Hãy là chính mình, làm chủ tư duy và có chính kiến mang tính xây dựng.
Dù là đảng viên, quần chúng hay người dân lao động thì hãy luôn nhớ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước, luôn cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về phòng chống tham nhũng./.

Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch


Thời gian qua, trên một số trang mạng phản động, các phần tử cơ hội cấu kết với những thế lực thù địch đã đăng tải nhiều tin, bài xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tổn hại mối quan hệ giữa ý Ðảng, lòng dân. Chúng khai thác một số khuyết điểm, yếu kém mà Ðảng ta đã chỉ ra để xuyên tạc bản chất của Ðảng; lợi dụng tình trạng dư luận xã hội bức xúc về tệ nạn tham nhũng, về sự suy thoái của một số cán bộ, đảng viên để quy kết khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội cho Ðảng; lợi dụng việc một số cán bộ cấp cao bị kỷ luật do vi phạm các nguyên tắc của Ðảng để coi đó là mất đoàn kết, thống nhất trong Ðảng; thổi phồng một số hạn chế, bất cập về mô hình tổng thể của tổ chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị chưa được hoàn thiện.
Phải khẳng định về bản chất, luận điệu này là xuyên tạc nguyên tắc lãnh đạo, tổ chức, sinh hoạt, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của Ðảng cộng sản Việt Nam. Ðây là thủ đoạn rất thâm độc của "diễn biến hòa bình", cố gắng tập trung chống phá, xuyên tạc làm dư luận nghi ngờ, tác động làm đảng viên thoái hóa, biến chất, từ đó phục vụ âm mưu phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Ðảng, kích động tinh thần dân chủ theo lối tự do vô chính phủ để từng bước làm mất uy tín, sức mạnh, vai trò lãnh đạo của Ðảng.
Vì vậy, chúng ta cần tăng cường cảnh giác, tích cực đấu tranh vạch trần, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc; qua đó trực tiếp khẳng định Ðảng cộng sản Việt Nam là chính Ðảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

NGUYỄN NGỌC NAM PHONG CÓ XỨNG ĐÁNG LÀ MỘT CÔNG DÂN? MỘT LINH MỤC?

Câu hỏi này được đặt ra sau khi cộng đồng mạng tiếp tục chứng kiến những hành động chống phá của ông linh mục này (đó là ông linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong của Dòng chúa cứu thế Thái Hà, Hà Nội), với thủ đoạn rất bẩn thỉu đó là lợi dụng thành tích của đội tuyển U23 Việt Nam, lợi dụng niềm tin, sự hâm mộ của người dân đối với đội tuyển, lợi dụng sự tự hào của chính người dân Việt để chống phá lại chính đất nước mình.
Vào ngày 28/1 vừa qua, trong buổi lễ rao giảng vì công lý, hòa bình, Nguyễn Ngọc Nam Phong đã lợi dụng câu chuyện của đội tuyển U23, với cái mác ban đầu là khen ngợi thành tích của đội tuyển, từ đó Nguyễn Ngọc Nam Phong quay sang tuyên truyền xuyên tạc để kích động chống phá Đảng và Nhà nước như vẫn thường thấy.
Có thể điểm qua mấy luận điệu phổ biến của Nguyễn Ngọc Nam Phong như xuyên tạc đất nước không có nhân tài, đất nước không có gì để tự hào, phải dựa vào U23 để tự sướng. Phong nói: “tại sao mới đạt giải Á quân mà vui như chết vậy”, “vì chúng ta chẳng có gì để tự hào”, “tại sao đất nước không sánh vai với cường quốc năm châu trong khi có nguồn nhân sự tài năng”…Và từ chỗ đó, Phong quay sang tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước khi cho rằng chính vai trò lãnh đạo của Đảng đã dẫn tới điều đó. Đảng đã “kìm hãm tài năng”, đã “khiến đất nước yếu kém”, và xuyên tạc rằng “cha ông đã chọn sai con đường và lý tưởng cho dân tộc”…Ý đồ chống Nhà nước của Nguyễn Ngọc Nam Phong đã thể hiện rất rõ qua những lời rao giảng như vậy. Đáng chú ý là những lời rao giảng này được Nguyễn Ngọc Nam Phong nói trước hàng trăm giáo dân đang nghe Phong giảng nên tính chất nghiêm trọng của vấn đề càng tăng lên. Và cũng giống như nhiều nhà “Rân chủ” khác đang uốn lưỡi cú diều, Nguyễn Ngọc Nam Phong còn quay sang phỉ nhổ, xuyên tạc cả niềm tự hào dân tộc, cho rằng chính quyền chính trị hóa thể thao, lấy câu chuyện bóng đá để lừa mị nhân dân, bản chất câu chuyện của U23 không có gì phải làm rùm beng lên thế…Còn nhiều lắm những lời rao giảng xuyên tạc của Nguyễn Ngọc Nam Phong; chưa hết Phong còn ép buộc giáo dân phải quay sang cầu nguyện cho những đối tượng chống đối chính quyền vi phạm pháp luật sắp bị Tòa xét xử như Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển…
Rõ ràng với một kẻ như Nguyễn Ngọc Nam Phong, xúc phạm, báng bổ cả niềm tự hào, tự tôn, lòng tự trọng dân tộc thì không còn gì để nói nữa. Nguyễn Ngọc Nam Phong không xứng đáng là một người công dân Việt Nam, huống hồ là một linh mục rao giảng trước giáo dân.

KẾ HOẠCH BẤT BẠO ĐỘNG Ở VIỆT NAM CỦA VIỆT TÂN


Âm mưu về kế hoạch bất bạo động của đảng Việt Tân ngày càng lộ rõ ở Việt Nam thông qua sự lãnh đạo, chỉ đạo. Ban đầu sự chỉ đạo này được thực hiện từ hải ngoại và nay là sự chỉ đạo trực tiếp của một số đảng viên đảng Việt Tân xuất hiện ở Việt Nam.
Kế hoạch bất bạo động ở Việt Nam đang hình thành từng bước theo từng giai đoạn phát triển cụ thể, dựa theo lý thuyết về bất bạo động của  Tiến sĩ Gene Sharp (Một nhà nghiên cứu về bất bạo động) đã đưa ra lộ trình về kế hoạch này bao gồm 3 giai đoạn:
Phản đối là hình thức đấu tranh căn bản nhất của bất bạo động, nhằm bày tỏ sự bất mãn của một người hay của nhiều người về một chính sách hay một chủ trương nào đó của nhà cầm quyền.
Bất hợp tác là hình thức phản kháng mang tính chất bất tuân phục về các nguyên tắc, đường lối chủ trương của chế độ độc tài.
Đối đầu công khai là hình thức phản kháng mạnh mẽ của số đông nhằm tạo áp lực toàn diện lên chế độ phải chấp nhận thay đổi hay đẩy chế độ vào thế lúng túng đối phó rồi tan rã.
Ba giai đoạn này đã được chính ông Lý Thái Hùng, Chủ tịch đảng Việt Tân thừa nhận đang thực hiện ở Việt Nam và ông cũng đã đánh giá rất kỹ về  tình hình các cuộc biểu tình ở Việt Nam, gây rối, chống đối chính quyền, mà tập trung vào khu vực Tây Nguyên, các điểm nóng thông qua các vụ việc tiêu cực xảy ra trong xã hội Việt Nam, cũng như đối tượng là công nhân. Trong một bài phát biểu trên trang tin của Việt Tân, ông Hùng thừa nhận: “hiện phong trào dân chủ ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở giai đoạn Phản đối “, “nhưng ông tin rằng cùng với sự xuất hiện của các tổ chức xã hội dân sự sẽ là bàn đạp để tiến đến giai đoạn 2: Giai đoạn Bất hợp tác”.
Thời gian qua, bất kỳ vụ việc gì từ người dân bị oan đến các hiện tượng tiêu cực hoặc đòi quyền lợi cho công nhân,… đều xuất hiện các cuộc biểu tình mang dáng dấp của ôn hòa, đòi dân chủ, công bằng, minh bạch,.. nhằm phản đối chính quyền, phản đối Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam. Theo đó, đảng Việt Tân đã can thiệp, chỉ đạo từ hải ngoại thông qua con đường “mạng xã hội” là chủ yếu nhằm hình thành các nhóm, người đối lập lại với chính quyền, với Đảng, với chế độ. Mặc dù, các vụ việc đều có sự chỉ đạo một cách bài bản từ hải ngoại, tuy nhiên các vụ biểu tình, đình công hay chống đối chính quyền nào đều bị dập tắt bởi lực lượng chức năng của Việt Nam. Do đó, Việt Tân rất lo lắng cho phong trào dân chủ trong nước nên qua vụ việc cá chết ở vùng biển miền Trung đã bắt đầu tung vào Việt Nam một số đảng viên cốt cán nhằm chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động này cho có hiệu quả hơn. Chính tác giả Đỗ Hoàng Điềm đã có bài viết đăng trên tờ tin của Việt Tân khẳng định rằng: “Và cũng như mọi người, anh chị em đảng viên Việt Tân đã tham gia trong phạm vi khả năng của mình vì muốn được chia sẻ bổn phận đối với đất nước“.
Như vậy, âm mưu của đảng Việt Tân rất rõ ràng về kế hoạch đấu tranh bất bạo động ở Việt Nam và tính hiệu quả của kế hoạch này hiện vẫn không đạt được theo lộ trình mà Việt Tân đặt ra. Phải chăng, các nhà theo phong trào dân chủ trong nước, các tổ chức xã hội dân sự được lập nên,… không đủ sức để lãnh đạo phong trào này tiến lên theo đúng kế hoạch? Đây là câu hỏi nhưng đồng thời cũng là câu trả lời cho sự thất bại về âm mưu chỉ đạo, lãnh đạo của đảng Việt Tân đối với phong trào dân chủ trong nước./.

NHÌN LẠI MỘT NĂM CHỐNG PHÁ CỦA ĐÁM DÂN CHỦ CUỘI


Năm 2017 đã khép lại, 2018 đã tới. Nếu có thể đưa ra một nhận định, đánh giá khái quát về “phong trào dân chủ” Việt do bọn phản động thực hiện thì chỉ có hai từ duy nhất để miêu tả đó là buồn và xịt.
Năm 2017 chứng kiến nhiều nhà “dân chủ” phản động nối gót nhau vào trại giam hoặc trại tạm giam bóc lịch. Đó là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh với 10 năm tù giam. Trần Thị Nga với 9 năm tù giam. Đó là các thành viên Hội anh em dân chủ nối gót nhau vào trại như Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Trung Trực, Trương Minh Đức. Đó là các bản án dành cho Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Văn Oai, là các lệnh truy nã dành cho Bạch Hồng Quyền… các “dân chủ” này lâu nay vẫn hoạt động chống chính quyền, vi phạm pháp luật nghiêm trọng nên khi các cơ quan chức năng đẩy mạnh đấu tranh, xử lý, nhiều nhà “dân chủ” đã phải nối gót nhau xộ khám.
Không chỉ bị suy giảm về lực lượng, về hoạt động bề nổi gần như phong trào “dân chủ” Việt của các lực lượng phản động cũng không có hoạt động “đấu tranh dân chủ, nhân quyền gì đáng kể”. Không phải họ không muốn hoạt động chống phá nữa mà vì cơ bản là những điều kiện để họ lợi dụng hoạt động ngày càng ít đi khi Đảng cộng Sản Việt Nam đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, khi niềm tin của nhân dân được củng cố, khi kinh tế xã hội của đất nước đang đà hồi phục và phát triển.
Một điểm nữa không thể không nhắc đến đó là sự thoái lui của một số nhà “dân chủ” như tuyên bố giải nghệ của Thảo Teresa. Sau khi chứng kiến nhiều đồng đảng khác vào tù, nhiều nhà “dân chủ” cảm thấy nhìn quan tài đổ lệ và tìm cách thoái lui. Điều này làm cho phong trào dân chủ bị hao hụt về số lượng, khiến phong trào đã buồn càng buồn thêm.
Và chắc chắn cũng không thể không đề cập đó là sự hậu thuẫn lớn nhất cho phong trào, cả về tài chính và tinh thần, ông chủ Mỹ đã quay lưng. Với khẩu hiệu nước Mỹ trên hết, tất cả vì lợi ích nước Mỹ, ông Trump đã không còn đoái hoài gì nhiều tới “phong trào dân chủ” Việt. Điều này kéo theo những sự hậu thuẫn về tinh thần như can thiệp trực tiếp vào quá trình các cơ quan chức năng bắt giữ, xử lý các nhà “dân chủ” hay tài trợ về vật chất ngày càng bị giảm sút. Và đương nhiên với các nhà “dân chủ” Việt, khi đã không còn tiền, khi đã không còn ông chủ chống lưng thì họ cũng chẳng thiết tha với chuyện đấu tranh “dân chủ, nhân quyền” nữa.
Chừng ấy nét chấm phá thôi cũng đủ thấy năm 2017 “phong trào dân chủ” Việt của bọn phản động buồn và xịt như thế nào. Năm 2018 chắc chắn sẽ không thể khá hơn.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN, XUYÊN TẠC VIỆC THÀNH LẬP BỘ TƯ LỆNH TÁC CHIẾN KHÔNG GIAN MẠNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


Ngày 08 tháng 01 năm 2018 tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng đã tổ chức công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc trên cả trên đất liền, trên không, trên biển và không gian mạng. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội phản động ở trong và ngoài nước đã tìm mọi cách để phủ nhận, xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước và Quân đội. Tiêu biểu trong số đó là Phạm Chí Dũng với bài viết “Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng có thành “Hội cờ đỏ”? đăng tải trên Blog Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Xuyên suốt bài viết là những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phản động về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thứ nhất, Phạm Chí Dũng đã suy diễn việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng là không cần thiết chỉ gây lãng phí, tốn kém cho Đảng, Nhà nước và nhân dân
Theo Phạm Chí Dũng, động thái của Chính phủ và Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố thành Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng vào ngày 8 tháng 1 năm 2018 đã làm dấy lên những dấu hỏi về mục đích thực sự của tổ chức quân sự này. Phạm Chí Dũng cố tình xuyên tạc mục đích, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, phòng ngừa nguy cơ chiến tranh mạng, bảo vệ an ninh mạng. Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; tham gia bảo đảm an ninh, an toàn không gian mạng, đấu tranh phòng, chống tội phạm công nghệ cao và “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc cả trên đất liền, trên không, trên biển và không gian mạng.
Phát biểu tại buổi lễ công bố Quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng cần phát huy vai trò tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo công tác, hoạt động tác chiến không gian mạng đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời sớm nghiên cứu, dự báo chiến lược chiến tranh mạng. Đề xuất ban hành các cơ chế, chính sách, kế hoạch tổ chức hoạt động tác chiến trên không gian mạng đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Vậy mà, Phạm Chí Dũng cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm phủ nhận việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã tổ chức lực lượng tác chiến trên không gian mạng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không chỉ ở nước ta.
Thứ hai, việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng sẽ tăng lên sức mạnh tác chiến trên không gian mạng ở nước ta hiện nay
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường thì việc thành lập Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng không những cung cấp, dự báo thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác mà còn góp phần phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mặt khác, việc thành lập Bộ tư lệnh Tác chiến không gian mạng, nhằm phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực chống phá cách mạng Việt Nam bằng những thủ đoạn tinh vi, sảo quyệt hơn trên không gian mạng. Đây là, sự nhanh nhạy, linh hoạt trong ứng phó với những tình huống có thể xảy ra trong tương lai, bảo đảm cho việc phát hiện và xử lý những vấn đề do chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ có thể xảy ra. Trong tương lai nếu chiến tranh xảy ra thì tác chiến không gian mạng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy hiệu quả của vũ khí công nghệ cao. Do đó, Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng thành lập sẽ là cơ sở tiền đề quan trọng để gắn kết chặt chẽ với tác chiến trên không, trên bộ, trên biển và trên không gian vũ trụ.
Mỗi công dân Việt Nam nên tự hào về những tiến bộ vượt bậc của nền khoa học, công nghệ đất nước. Những tiến bộ này góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước. Không đóng góp được gì cho quê hương đất nước thì cũng không nên “nghe hơi nồi chõ” để rồi suy diễn bậy bạ, gây hoang mang dư luận, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân vào sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những lời xuyên tạc, bịa đặt của Phạm Chí Dũng chẳng đánh lừa được ai, gã càng chứng tỏ là người không những thiếu hiểu biết, nhận thức rất mơ hồ, mà còn quay lưng lại với Tổ quốc, nhân dân Việt Nam./.

GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG


Hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác đối ngoại. Tuy nhiên, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta đang là một trong những đề tài chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Đây là âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc, phải bị lên án và đấu tranh.
Trước hết, phải khẳng định, đó là đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh cách mạng và thực tiễn đất nước, luôn có sự bổ sung và phát triển sáng tạo trong từng giai đoạn cách mạng. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đường lối đó hoàn toàn phù hợp với xu thế lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thông qua đường lối đối ngoại của mình, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên cùng với sự lớn mạnh của tiềm lực quốc gia dân tộc. Nếu như tại Đại hội VI, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đến Đại hội VII, ta tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, Đại hội IX của Đảng năm 2001, trên cơ sở bổ sung, phát triển phương châm đối ngoại của Đại hội VII, khẳng định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Và ngày nay, chúng ta ẫn khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Chính đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo đó đã góp phần rất quan trọng vào những thành tựu của 30 năm đổi mới đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá nhằm cô lập ta trên trường quốc tế, làm suy yếu tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các đài phát thanh thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, Châu Á tự do (RFA), Đài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), các trang mạng xã hội… các thế lực thù địch đã và đang tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật về công cuộc đổi mới ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”, “không có tự do báo chí, tự do ngôn luận” nhằm hạ thấp uy tín, vị thế Việt Nam, tạo dư luận xấu trong nhân dân và bè bạn quốc tế. Chúng lợi dụng các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức nhân quyền quốc tế, Liên minh Châu Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế Á – Âu… để gây áp lực, cô lập Việt Nam. Thậm chí chúng còn kêu gọi các nước phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)… chấm dứt đầu tư vào Việt Nam, ngừng các khoản viện trợ đầu tư phát triển cho Việt Nam. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục đích cô lập, làm suy yếu tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hướng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, bảo vệ đường lối của Đảng tất yếu phải bảo vệ đường lối đối ngoại, bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính bản thân mình vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”, "Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp". Mặc dù hiện nay, ở đâu đó vẫn còn những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, nhưng chúng ta  phải công nhận rằng đó chỉ là thiểu số, chỉ là “một bộ phận” như đánh giá của Đảng, là những “con sâu làm rầu nồi canh”, chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất của Đảng. Đảng ta vẫn xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII viết: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia –dân tộc… trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phất triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân”. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ đường lối của Đảng nói chung cũng như đường lối đối ngoại của Đảng nói riêng.
Thực tiễn đã chứng minh đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là đúng đắn và hiệu quả, đã nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 186/193 nước thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó có năm nước trường trực Hội đồng Bảo an, thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với ba nước (Nga, Trung Quốc, Ấn Độ), đối tác chiến lược với 15 nước, đối tác toàn diện với 10 nước. Và vừa mới đây thôi, chúng ta đã lần thứ hai tổ chức thành công Tuần lễ cấp cao APEC, được nguyên thủ của các quốc gia thành viên cũng như các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao. Điều đó cho thấy sự năng động, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được coi trọng trên các diễn đàn quốc tế.
Các mối quan hệ đó đã mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, phục vụ thiết thực cho mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, tái cơ cấu nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.  Công tác đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta ngày càng chủ động, tích cực hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay, ta có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD đầu tư nước ngoài (FDI), đã vận động được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và Nhà nước ta.
Công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công tác đối ngoại đã thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền’, “tôn giáo”. Nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Tóm lại, những thành tựu của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là không thể phủ nhận. Đó là kết quả của việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi hành động xuyên tạc, phủ nhận thành tựu đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta đều là những luận điệu bịp bợm, mỵ dân của các thế lực thù địch và phản động. Những tiếng nói lạc lõng đó không thể làm lay chuyển hay tạo áp lực lên đường lối đối ngoại của Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn có một bộ phận người dân trong nước lại “hùa theo” những luận điệu vô căn cứ đó một cách mù quán, thiếu cơ sở và lệch lạc về thông tin theo cách thức mà ta thường gọi là “bị dắt mũi”. Những hành động đó phải bị lên án và lật tẩy, nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp đổi mới đất nước./.

SỰ ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM VÔ CÙNG NGUY HIỂM


Sau khi Đảng ta đưa ra quan niệm về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để nhận dạng, ngăn chặn xu hướng vận động tiêu cực trong nội bộ một số tổ chức đảng và đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, các thế lực thù địch đã ra sức tuyên truyền, chống phá khi chúng cố tình đánh đồng khái niệm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với “đổi mới”.
1. Quan niệm của Đảng ta về “đổi mới” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Dù rằng về mặt triết học, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và đổi mới đều là sự vận động của xã hội. Nhưng nếu đồng nhất hai xu hướng này trong mọi điều kiện cụ thể, ví như trong đường lối đổi mới của Đảng ta là sự phiến diện, là thủ đoạn chính trị của các thế lực phản động.
Thực chất, đổi mới theo quan niệm của Đảng ta, là quá trình vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ xấu sang tốt, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Đổi mới không phải là sự phủ định sạch trơn, mà là tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững. Đổi mới phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh; cả tư duy, tổ chức cán bộ, phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đổi mới nhưng phải kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tự diễn biến, tự chuyển hóa là sự thay đổi ngay từ bên trong nội bộ, sự thay đổi theo chiều hướng từ tốt thành xấu, từ tích cực sang tiêu cực. Ở phạm vi tổ chức, là những thay đổi tầm vĩ mô về đường lối, chủ trương, chính sách, làm thay đổi bản chất chính trị, thậm chí làm suy yếu và tan rã tổ chức. Ở cấp độ cá nhân, là sự thay đổi về nhận thức chính trị, xã hội, quan điểm, tư tưởng, phong cách theo hướng tiêu cực.
2. Vì sao không thể đánh đồng giữa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với “đổi mới’?
Trước hết, là sự khác biệt về bản chất.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự chuyển biến theo chiều hướng từ tốt sang xấu, từ tích cực sang tiêu cực, từ tin tưởng, làm theo đến chống đối, phá hoại. Đó là các nhận thức và hành động đi ngược với lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân. Điều này đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ rõ 27 biểu hiện để nhận diện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
“Đổi mới”, chính là sự vận động từ xấu chuyển thành tốt, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, là xóa bỏ mô hình cũ lạc hậu, xây dựng mô hình mới tiến bộ, phù hợp, vì lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân.
Khác nhau về phạm vi tác động.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực, ở tất cả các tổ chức và cá nhân, mà chỉ diễn ra trong nội bộ một bộ phận tổ chức đảng, một vài cán bộ, đảng viên và nhân dân.
“Đổi mới” diễn ra rộng khắp, bao trùm mọi lĩnh vực, thậm chí xảy ra ở cả các đối tượng tự diễn biến, tự chuyển hóa (Đó là hình thức, phương thức biểu hiện tinh vi, xảo quyệt hơn). Vì vậy, “đổi mới” bao trùm cả sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là những xu hướng vận động tiêu cực nằm trong dự báo của Đảng ta, đó là quá trình “đổi mới” sẽ không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm, có thể bị kẻ địch kích động, chống phá để tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đối lập nhau về mục đích.
“Đổi mới” là quá trình để tìm tòi những mô hình hay, cách làm mới, hiệu quả, sáng tạo nhằm cải biến cái cũ, cái lạc hậu theo chiều hướng tích cực. Ở phạm vi kinh tế - xã hội là sự thay đổi theo hướng tích cực của mô hình phát triển nhằm tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự thay đổi từ bên trong, do sự chuyển hóa, biến đổi từ tốt sang xấu, là thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, nhằm mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chuyển hướng Việt Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Cuối cùng, kết quả tạo ra của hai xu hướng này là hoàn toàn trái ngược nhau.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tất yếu dẫn đến diệt vong của chế độ, mà thực tế sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cuối những năm 80 đã chứng minh. Ngược lại, kiên định đường lối “đổi mới” đúng đắn, sáng tạo sẽ thu được thành công như Lào, Việt Nam, Trung Quốc.
Như vậy, giữa “đổi mới” với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Nhưng, bọn thù địch phản động cố tình không hiểu điều đó, chúng cho rằng giữa “đổi mới” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có sự tương đồng nhau; suy diễn chữ “tự” ở đây là vấn đề xuất phát từ chính nội bộ Đảng chứ không có sự tác động nào từ bên ngoài. Thậm chí chúng còn vịn vào điều kiện lịch sử khi đất nước bị chia cắt để “vẽ” ra luận điểm “dân tộc đa nguyên – chính trị nhất nguyên” để luận giải cho nguyên nhân nội tại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây là sự đánh tráo khái niệm vô cùng nguy hiểm và tinh vi, xảo quyệt, nếu chúng ta không tỉnh táo, kịp thời nhận diện sẽ rơi vào con đường phản động, chống phá, trở thành những con bài tích cực trong tay bọn cơ hội, phản động./.  

PHÒNG, CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT


Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác định: “Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, thời gian gần đây, văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng đang trở thành lĩnh vực mà các thế lực thù địch chống phá quyết liệt, tạo dư luận xấu trong xã hội.
Văn học, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần xã hội, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách cho nhân dân. Văn là người, học văn là học cách làm người, có câu nói đã thành chân ngôn: Một người thầy thuốc mà sai lầm thì có thể giết chết một bệnh nhân, một nhà chính trị mà sai lầm thì có thể giết hại một dân tộc, một nhà làm văn hóa tư tưởng mà sai lầm thì có thể giết hại cả một thế hệ. Vì vậy, các thế lực thù địch chống phá ta quyết liệt trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật để tạo ra một thế hệ người dân Việt Nam u mê, sai lầm, lạc lối nhằm phục vụ cho mục đích đen tối của chúng là nô dịch nước ta một lần nữa. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Mất văn hóa là mất tất cả”. Vì vậy, trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” không có gì có thể hiệu quả hơn bằng cách đẩy mạnh chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa nói chung và văn học, nghệ thuật nói riêng.
Hơn 30 năm qua, Việt Nam tiến hành mở cửa, hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã đem lại nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên chúng ta cũng gặp phải không ít thách thức, khó khăn. Đại hội Đảng lần thứ XII đã đánh giá: “Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông trên mạng Internet để chống phá ta”. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhạt phai lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng phương Tây. Tất cả những hạn chế, khuyết điểm trên đã làm cho sức đề kháng của nhân dân trước sự tấn công của văn học, nghệ thuật ngoại lai, phản động trở nên yếu ớt, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân còn ra sức cổ súy cho văn học nghệ thuật ngoại lai, phản động.
Trong chiến lược của mình, các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng chiêu bài “nội công, ngoại kích” trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật để đẩy mạnh các hoạt động chống phá. Trước đây, chúng đã đầu tư xây dựng bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” rồi tán phát trên mạng xã hội, nhưng thất bại cay đắng. Gần đây, chúng liên tục phỏng vấn, đặt viết bài với các gương mặt văn nghệ sĩ phản động, “trở cờ” như Nguyên Ngọc, Dương Thu Hương, Nguyễn Quang Lập… nhằm thu hút, lôi kéo sự quan tâm của cư dân mạng Việt Nam. Chúng sử dụng các nhà văn, nhà thơ, ca sĩ bất mãn với chế độ làm công cụ chống phá với các yêu sách như đòi lập Hội nhà văn độc lập, đòi Nhà nước không được kiểm soát lĩnh vực văn học, nghệ thuật, tôn trọng tự do sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Chúng sử dụng văn học nghệ thuật để gây nhiễu loạn thông tin, như tuyên truyền, đưa tin xuyên tạc, bóp méo sự thật, qua đó tạo cái nhìn phiến diện của nhân dân thế giới đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà bộ phim “The Vietnam War” (Chiến tranh Việt Nam) là một minh chứng.
Nhắc đến bộ phim này, cần phải khẳng định rằng, bộ phim đã có cái nhìn phiến diện, hạ thấp tính chính nghĩa cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, vu khống cho cộng sản là những người khát máu, tàn sát nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, cho rằng chúng ta chiến đấu, hy sinh xương máu là vì phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc và Liên Xô (cũ). Trả lời về sự kiện này, bà Lê Thị Thu Hằng, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, nhắc lại quan điểm của Việt Nam về cuộc chiến tranh: "Đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, mang tính chính nghĩa và đã phát huy được sự đoàn kết và sức mạnh của toàn dân tộc, được bạn bè và nhân dân thế giới hết lòng ủng hộ. Chính vì thế đã đi đến thắng lợi cuối cùng là thống nhất đất nước".
Cùng với đó, chúng còn lợi dụng mạng xã hội để đưa vấn đề từ nhỏ thành lớn nhằm tạo hiệu ứng phong trào, gây hoang mang, dao động cho nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, nhà nước đối với văn học, nghệ thuật. Điển hình là các sự kiện như tiểu thuyết “Mối chúa” của Tạ Duy Anh, các trang tin nước ngoài liên tục đưa tin sai lệch về tiểu thuyết “Mối chúa”, chúng cho rằng Nhà nước ta bưng bít thông tin, không chấp nhận thực tế xã hội, cấm đoán tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật của văn nghệ sĩ, rồi chúng lu loa rằng chúng ta vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”. Vậy thực hư câu chuyện trên như thế nào? Công văn số 914/CXBIPH-QLXB được Cục Xuất bản, In và Phát hành gửi đến Nhà xuất bản Hội Nhà văn hôm 13/9, sau thời gian đọc lưu chiểu cuốn sách “Mối chúa” của tác giả Tạ Duy Anh với bút danh Đãng Khấu chỉ rõ "Nội dung cuốn sách phản ánh những vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Tác giả đã vạch trần những tiêu cực và bất công trong xã hội. Tuy nhiên, phần lớn các nhân vật trong tác phẩm từ thấp đến cao đều đen tối, vô vọng, đau đớn... Một số chi tiết được viết với giọng điệu giễu nhại sâu cay, miêu tả tiêu cực có phần tô đậm và có tính khái quát khiến cho hiện thực trở nên đen tối, u ám. Các trang viết về chính quyền cưỡng chế nông dân trong việc thực hiện các dự án được miêu tả một cách cường điệu, coi đó như hai lực lượng thù địch…".
Hay sự kiện cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam (VFS) thì chúng cho rằng chúng ta yếu kém trong quản lý hoạt động văn học, nghệ thuật, “kinh tế hóa” văn học, nghệ thuật, có “lợi ích nhóm”, “tham nhũng” trong cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam… Rồi vụ Hội nhà văn Hà Nội chậm tiến hành đại hội, việc Chủ tịch Phạm Xuân Nguyên từ chức, chúng thổi phồng lên là Nhà nước ta can thiệp quá sâu vào hoạt động của Hội, cỗ vũ hành động của Phạm Xuân Nguyên là anh hùng, là dám đấu tranh cho những tiêu cực, dám vạch trần những mảng màu u tối trong bức tranh văn học, nghệ thuật của Hà Nội và Việt Nam.  
Trong những sự kiện như nêu trên, nếu chúng ta chỉ cần đứng trên quan điểm quốc gia, dân tộc, ta sẽ dễ dàng nhận ra ẩn ý sâu xa bên trong những luận điệu chống phá. Thế mà những sự kiện đó vẫn kéo theo được hàng chục nghìn, thậm chí hàng trăm nghìn lượt thích và chia sẻ trên các trang mạng xã hội, tạo môi trường thuận lợi để chúng xen vào những bình luận cực đoan, đả kích, xuyên tạc để dắt mũi “dư luận”, vẽ nên một bức tranh ảm đạm, xám xịt của xã hội Việt Nam. Hệ quả là những bạn trẻ, thanh niên, học sinh, sinh viên ít kinh nghiệm thực tiễn xã hội sẽ dần hình thành một lối tư duy tiêu cực, chán nản và vô hình trung lại chuyển thành phản động, chống phá lúc nào không hay. Vì họ đâu biết rằng, hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền, thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân,… gây hoang mang trong nhân dân là tội phạm hình sự, được quy định tại Điều 117, Bộ Luật Hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018).
Tóm lại, bản chất phản động của các thế lực thù địch là không thay đổi, có chăng chúng được che dấu dưới những thủ đoạn mới hết sức tinh vi, xảo quyệt. Mà trong đó, lợi dụng sự phóng khoáng, mỹ miều của văn học, nghệ thuật để có thể tự do tiêm nhiễm những luận điệu thù địch một cách hết sức thâm độc, ẩn mình, rất khó để nhận diện. Vì vậy, mỗi người dân chúng ta hãy là những khán – thính giả thông thái, tiếp nhận và thưởng thức văn học, nghệ thuật một cách văn hóa, văn minh, để không không bị “dắt mũi”, mắc mưu, luôn sẵn sàng vạch trần bộ mặt thật của chúng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, góp phần bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng, giữ gìn sự bình yên trong đời sống tinh thần của xã hội, bảo đảm cho nhân dân được quyền thưởng thức các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong sáng, lành mạnh./.

NÂNG CAO TINH THẦN CẢNH GIÁC TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC THÔNG TIN THẤT THIỆT TRÊN MẠNG INTERNET


Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, hằng ngày, chỉ cần một thiết bị có kết nối in-tơ-nét chúng ta đã tiếp cận được lượng thông tin khổng lồ; trong đó, có rất nhiều thông tin hữu ích, nhưng cũng không ít thông tin thất thiệt với nội dung xấu, làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, chống phá Đảng, chế độ và sự phát triển đất nước.
Thực tế cho thấy, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, quyền dân chủ, tự do thông tin của người dân trên in-tơ-nét thông qua các mạng xã hội và công cụ thông tin, như: Facebook, Twitte, YouTube, Google, Yahoochat, Gmail,… phát triển rất nhanh, liên kết, lan tỏa sâu rộng, với hàng tỷ người sử dụng. Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển, ứng dụng in-tơ-nét hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á, với gần 52% dân số sử dụng và hơn 100 triệu thuê bao điện thoại di động; mạng xã hội được người Việt sử dụng nhiều nhất là Facebook (khoảng trên 30 triệu người).
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 400 tổ chức phản động lưu vong; 380 báo, tạp chí và 60 đài phát thanh có chương trình tiếng Việt, hơn 80 nhà xuất bản và hàng nghìn trang web thường đăng tải tin, bài, xuất bản những ấn phẩm có nội dung chống Nhà nước Việt Nam. Ở trong nước, cũng có hàng trăm trang web, blog, Facebook,… do một số kẻ cơ hội, phần tử bất mãn, thoái hóa, biến chất đội lốt “dân chủ” lập nên, lợi dụng “phản biện xã hội” để tung tin thất thiệt, chống phá sự phát triển của đất nước. Mục đích của chúng là đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội và nội bộ, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, gây mất ổn định về chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tiến tới thực hiện “cách mạng màu”, thiết lập chế độ dân chủ tư sản “đa nguyên, đa đảng” ở nước ta. Nội dung của những thông tin này chủ yếu là: xuyên tạc lịch sử, truyền thống dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; nói xấu chế độ, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, v.v. Việc đưa loại thông tin này trên in-tơ-nét thường xuyên, tập trung nhất là vào thời điểm đất nước kỷ niệm những ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại, hoặc khi tình hình quốc tế, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp (tình hình Biển Đông, hiện tượng cá chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển miền Trung,…). Năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016, chúng tập trung chống phá quyết liệt đại hội Đảng các cấp; bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021. Trong đó, chúng chĩa mũi nhọn vào phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, với Quân đội, Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật, luật, dự luật của Nhà nước; phủ định nguyên nhân, ý nghĩa thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, v.v. Thủ đoạn mà chúng sử dụng hết sức tinh vi, thâm độc, với các hình thức như: tăng cường câu kết trong, ngoài, thành lập các tổ chức ngầm; cử lực lượng bám tình hình, lợi dụng những sơ hở, hạn chế, bất cấp trong chỉ đạo, quản lý đất nước của Nhà nước ta để tung tin thất thiệt, xuyên tạc, kích động, chống phá. Đồng thời, tìm kiếm, thu thập thông tin và những ý kiến khác về: kinh tế, quân sự, an ninh, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tình hình xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất,… để bịa đặt, thổi phồng hòng làm cho thật, giả lẫn lộn, gây rối loạn trong xã hội và nội bộ.
Đối tượng chủ yếu chúng hướng tới là tầng lớp thanh niên, nhất là các du học sinh, người có trình độ học vấn cao, con em lãnh đạo cấp cao, những cán bộ, đảng viên trẻ có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước, bị xử lý kỷ luật, những phần tử cơ hội, xét lại, bất mãn trong đó có cả cán bộ, chiến sĩ trong LLVT. Về lực lượng, chúng liên kết chặt chẽ các tổ chức trong và ngoài nước để thiết lập những “không gian ảo”, tạo ra những trang web đặt máy chủ ở nước ngoài (gần đây đã bắt đầu xuất hiện một số trang sử dụng tên miền Việt Nam - tên miền .vn); liên thông, kết nối với những nhóm cơ hội chính trị, như: “thư ngỏ”, “dân oan”, các “Hội”, “Đoàn”,… những kẻ tự xưng là nhà đấu tranh cho “dân chủ”, “nhân quyền”, đòi “tự do thông tin”, “chống tham nhũng, cường quyền”,… để chuyển tải những thông tin thất thiệt phục vụ cho ý đồ của chúng. Điển hình như các trang: “Quan làm báo”, “Dân làm báo”, “Ba Sàm”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, v.v. Ngoài ra, chúng còn thuê tin tặc, sử dụng các biện pháp xâm nhập hệ thống máy tính, luồn sâu vào cơ quan trọng yếu quốc gia nhằm khai thác tư liệu để chống phá đất nước, chế độ ta.
Đối với cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cảnh giác, đấu tranh với loại thông tin thất thiệt trên in-tơ-nét là một trong những cách miễn dịch trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Để làm điều đó, trước hết cấp ủy, các cấp cần đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng thông tin, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Thực tiễn chỉ ra rằng, khi nào nguồn thông tin chính thống được cung cấp một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác thì khi đó mọi người mới có nhận thức đúng và “miễn dịch”, “tự đề kháng” trước những thông tin thất thiệt, xấu độc; trên cơ sở đó, chủ động đấu tranh loại bỏ thông tin sai trái này một cách hiệu quả. Đồng thời, qua thông tin chính thống cần chủ động định hướng tư tưởng cho tập thể cơ quan, đơn vị trước những sự kiện “nóng”, nhạy cảm trong nước và quốc tế tạo sự đồng thuận trong xã hội với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước. Đặc biệt, cần tuyên truyền để thấy rõ âm mưu, thủ đoạn chống của các thế lực thù địch trên in-tơ-nét; làm rõ những vấn đề phức tạp mà xã hội đang quan tâm, không để cán bộ, chiến sĩ bị “đói”, bị “nhiễu” thông tin.
Cùng với đó, cần quan tâm xây dựng, củng cố, nâng cao khả năng đấu tranh của các lực lượng nòng cốt. Đấu tranh phản bác các quan điểm thù địch, sai trái trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa nói chung, trên in-tơ-nét nói riêng, như hệ thống Báo cáo viên, lực lượng 47 ở các cấp... Đây là lực lượng có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ lý luận và có trình độ, khả năng chuyên môn cao trong sử dụng các phương tiện kỹ thuật, khai thác in-tơ-nét để viết bài phản bác các thông tin xấu độc. Tuy nhiên, để phát huy tốt hơn nữa vai trò của đội ngũ này, cần chú trọng mở các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về phương pháp, kỹ năng viết bài và khuyến khích, động viên tự học, tự rèn nâng cao trình độ mọi mặt, cập nhật thông tin, tình hình thực tiễn, v.v. Đồng thời, coi trọng đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, phương tiện,… giúp họ phát huy năng lực trong quá trình đấu tranh với loại thông tin thất thiệt trên in-tơ-nét. Gắn liền với đó, cần thực hiện tốt phương châm gắn “xây với chống”, lấy xây là chính, chống là quan trọng. Trong đó, tập trung xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh, thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tích cực phòng gian, bảo mật, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Trong quá trình thực hiện, cần xây dựng quy chế, quy định sử dụng in-tơ-nét phù hợp với pháp luật; quản lý chặt chẽ tài liệu mật; nắm chắc địa bàn, nội bộ và các mối quan hệ xã hội của cán bộ, chiến sĩ; giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, kỷ luật thông tin, nhất là khi trao đổi, chia sẻ trên các trang mạng xã hội, blog cá nhân, đảm bảo không để kẻ xấu lợi dụng thông tin để “nhào nặn” thành tin thất thiệt phục vụ cho mưu đồ của chúng, lọt lộ bí mật quân sự, ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đơn vị./.