Thứ Hai, 19 tháng 9, 2022

PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC DBHB TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Để phòng chống “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, cần tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo vệ Đảng cả về chính trị - tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh và nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tăng cường củng cố các tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ Đảng. Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền vững chắc, làm cho nó thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng và các thành tố trong hệ thống chính trị. Xây dựng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng XHCN trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo sức đề kháng chống âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của địch, đẩy lùi, khắc phục tư tưởng lệch lạc, chủ nghĩa giáo điều, cơ hội dưới mọi hình thức. Giáo dục lòng tự hào dân tộc, phát huy truyền thống yêu nước, ý trí tự lực, tự cường của Nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, đi đôi với thực hiện tốt chính sách xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của Nhân dân, củng cố, giữ vững niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, cần tập trung tăng cường công tác lý luận, tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng; bảo vệ, củng cố vai trò lãnh đạo của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào và tinh thần tự cường dân tộc, truyền thống dựng nước và giữ nước. Kiên định đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả khuynh hướng tư tưởng tư sản, tư tưởng xã hội dân chủ, các luận điệu tuyên truyền vu cáo CNXH, bội nhọ, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận đường lối quan điểm của Đảng, phủ nhận lịch sử và các quan điểm đòi “đa nguyên, đa đảng, dân chủ, nhân quyền” theo kiểu phương tây, các luận điệu chống phá cách mạng nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.

Xây dựng, bảo vệ, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng, có tâm hồn trong sáng, có tầm cao trí tuệ. Giữ vững định hướng XHCN trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo vệ các thành quả cách mạng trong hoàn cảnh mới. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Mở rộng giao lưu quốc tế trên cơ sở giữ vững, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý và kiểm soát chặt chẽ công tác tuyên truyền, xuất bản và có định hướng thống nhất trrong chỉ đạo nghiên cứu lý luận; nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng - văn hóa trong tình hình mới.

Trong chiến lược DBHB, kẻ thù luôn lợi dụng lĩnh vực kinh tế để gây sức ép về chính trị, buộc ta lệ thuộc và làm chệch hướng nền kinh tế theo hướng tư bản, tiến tới chệch hướng về chính trị. Ngoài ra, kẻ thù còn dùng tiền và vật chất để mua chuộc, lôi kéo, tha hóa đội ngũ cán bộ của ta. Vì vậy, trong chiến lược DBHB, lĩnh vực kinh tế được coi là mũi nhọn chống phá của địch. Để phòng, chống DBHB của địch trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta phải quán triệt, thực hiện và bảo vệ vững chắc đường lối đổi mới kinh tế của Đảng theo định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế, thương mại, thông qua kinh tế để chuyển hóa ta về chính trị.

Đồng thời, thực hiện phương châm chủ động hợp tác, đấu tranh kiên quyết, mềm dẻo trong quan hệ kinh tế, đồng thời, hạn chế các mặt tiêu cực do nền kinh tế thị trường tạo ra trên một số mặt của đời sống xã hội; phấn đấu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tham ô, lãng phí. Nâng cao ý thức, năng lực cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng năng lực cạnh tranh và hoàn thiện pháp chế về kinh tế; thực hiện xóa đói giảm nghèo, chăm lo ngày một tốt hơn đời sống mọi mặt của Nhân dân...

Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo đúng đắn, làm cơ sở củng cố khối đoàn kết toàn dân. Trong đó, tôn trọng quyền lợi và sự bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng của Nhân dân theo pháp luật và truyền thống văn hóa Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước với một hệ thống pháp, chính sách đồng bộ, hợp lý để khai thác, phát huy mọi bản sắc, tập quán tốt đẹp của Nhân dân. Phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các già làng, trưởng bản, nhân sĩ, chức sắc tôn giáo trong công tác vận động quần chúng. Đầu tư xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào có đạo, nâng cao dân trí và đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Đề cao dân chủ, tôn trọng tập quán, tự do, tín ngưỡng của cả người có đạo và người không có đạo, đi đôi với chống các hủ tục lạc hậu, hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây rối trật tự xã hội, tiếp tay cho địch xây dựng, cài cắm lực lượng, tổ chức phản động, chống phá Đảng, chống CNXH.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trận tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi âm mưu và hành động bạo loạn lật đổ của địch; không để địch cài cắm, móc nối, mua chuộc nội bộ; bảo vệ bí mật quân đội, quốc gia. Đồng thời, nâng cao năng lực và hiệu quả tham mưu cho Đảng và nhà nước của các bộ, ngành, cơ quan chức năng về QPAN; luôn chủ động, có những quyết sách đúng đắn để làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của địch.

Tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làm tốt công tác vận động quần chúng, đặc biệt ở những địa bàn trọng yếu, vùng rừng núi, biên giới, hải đảo; làm tốt công tác giáo dục, vận động Nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, tham gia tích cực vào sự nghiệp QPAN, phòng chống DBHB, bạo loạn lật đổ. Đại hội XIII của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu: "Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ“. Đồng thời phải nâng cao trình độ khả năng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống.

Tiếp tục xây dựng, củng cố, hoàn chỉnh thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa phương. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), huyện (quận) ngày càng vững chắc, làm thất bại mọi âm mưu gây mất ổn định trên đất nước ta của địch. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quốc phòng - an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành tập trung thống nhất của nhà nước. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt với Lực lượng vũ trang Nhân dân và Công an Nhân dân. Kiên quyết không để kẻ địch thực hiện âm mưu phi chính trị hóa, tiến tới vô hiệu hóa Lực lượng vũ trang Nhân dân, nhất là Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân.

Để làm tốt họạt động đối ngoại trong phòng, chống DBHB, bạo loạn lật đổ, cần tiếp tục quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng đó là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một đất nước Việt Nam XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệm hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đổi mới tư duy đối ngoại để phù hợp với sự phát triển mau lẹ của tình hình thế giới. Có dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, chiều hướng vận động của các mối quan hệ quốc tế và âm mưu, thủ đoạn chiến lược DBHB, bạo loạn lật đổ của kẻ thù đối với Việt Nam; cảnh giác, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn DBHB bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trên lĩnh vực ngoại giao để có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa.

Xác định đúng đối tượng, đối tác trên các lĩnh vực; khai thác sự đồng thuận trong các quan hệ lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau trên thế giới, trong khu vực và với Việt Nam, để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động tiến công trên hoạt động đối ngoại, vạch trần và làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam dưới mọi hình thức. Vận động Việt kiều tham gia phát hiện, đấu tranh với những âm mưu và hành động chống phá của bọn phản động người Việt lưu vong. Phối hợp đối ngoại với an ninh - quốc phòng trong phòng, chống DBHB, bạo loạn lật đổ. Không cho địch lợi dụng lãnh thổ các nước láng giềng để xâm nhập, hỗ trợ, chỉ đạo chống phá Việt Nam. Làm tốt công tác đối ngoại Nhân dân, nhất là khu vực các tỉnh biên giới, hải đảo, các thành phố, thị xã và các khu công nghiệp tập trung nhiều nhà đầu tư nước ngoài./.

ĐẤU TRANH CHỐNG CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 


Chiến lược “Diễn biến hòa bình” là chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mà không cần đến chiến tranh. Vì vậy, chiến lược DBHB là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước xã hội tiến bộ, trước hết là các nước XHCN từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa chế độ chính trị - xã hội theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản do Mỹ thao túng, bá quyền.

Thuật từ “Diễn biến hòa bình” còn được sử dụng thay thế bằng các thuật từ khác như: chiến tranh không có tiếng súng, cách mạng màu, cách mạng nhung, cách mạng hoa hồng, chiến thắng không cần chiến tranh...

Mục tiêu tổng quát của DBHB là làm cho đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, từ cán bộ cấp cao cho đến người dân đều có chung tâm trạng hoài nghi, dao động; không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, nhằm tiến tới xóa bỏ mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.

Mục tiêu cụ thể của DBHB thể hiện sự chống phá trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tập trung ở các khía cạnh:

Về tư tưởng, chính trị, dùng nhiều kế hoạch và phương tiện, tuyên truyền nhằm xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như những nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó gây ra “tự diễn biến”, hòng tạo ra sự khủng hoảng về lý tưởng chính trị, làm suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Từ đó làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị, từng bước thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bằng ý thức hệ tư bản chủ nghĩa.

Về kinh tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế nhằm xâm nhập, gây sức ép, từng bước chuyển hóa Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Về văn hóa, làm phai nhạt và tiến tới làm mất bản sắc văn hóa Việt Nam.

Về thể chế pháp luật, đòi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên, đa đảng.

Đặc trưng cơ bản để nhận biết được chiến lược DBHB so với các chiến lược phản cách mạng khác, chính là: cuộc chiến không sử dụng súng, không mùi thuốc súng; cuộc chiến chủ yếu sử dụng các công cụ mềm như kinh tế, ngoại giao văn hóa, tư tưởng, khi cần mới sử dụng sức mạnh quân sự, để răn đe đối phương; tác động từ bên ngoài vào tạo nên sự chuyển hóa, tự diễn biến, tự suy yếu bên trong các nước XHCN, thông qua con người, lực lượng phương tiện của chính đối phương; không phá hủy của cải vật chất của đối phương bằng sức mạnh quân sự, chủ yếu “ru ngủ”, gây mất cảnh giác cách mạng của Nhân dân lao động, mua chuộc, lôi kéo những người có chức vụ cao trong cơ quan Đảng và nhà nước, những văn nghệ sĩ, tri thức có uy tín, những người có tư tưởng dao động, nhận thức lệnh lạc hoặc bất mãn với chế độ.

Và một đặc điểm khác, chiến lược DBHB mang tính toàn cầu, được triển khai trên quy mô lớn và rộng khắp, tiến hành gặm nhấm, không vội vã, có trọng tâm, trọng điểm, từng bước làm cho đối phương rối loạn nội bộ rồi sụp đổ... DBHB đã trở thành một trong những nguyên nhân đến sự sụp đổ của các nhà nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch phản động đang đẩy mạnh DBHB đối với các nước XHCN còn lại. DBHB do các thế lực thù địch tiến hành, đã và đang là một trong bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định: DBHB do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.

Âm mưu, thủ đoạn, chiến lược DBHB của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay

Như trên đã đề cập, mục tiêu chiến lược nhất quán của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN, làm cho Việt Nam chuyển hóa sang tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc và phương Tây.

Để đặt được mục tiêu đó, địch không từ bỏ một thủ đoạn chống phá nào, kể cả hành động can thiệp quân sự và trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược...

Từ đầu thập niên 50 đến năm 1975, đây là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá nước ta toàn diện, dùng hành động quân sự là chủ yếu để can thiệp và tiến hành chiến tranh xâm lược, nhưng cuối cùng đã thất bại hoàn toàn vào ngày 30-4-1975.

Từ sau năm 1975 đến năm 1994, đây là giai đoạn nước ta còn nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai nặng nề, đặc biệt là tác động tiêu cực của những biến động Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đối với Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động tăng cường nhiều biện pháp chống phá như: bao vây, cấm vận kinh tế; cô lập ngoại giao; kết hợp DBHB, bạo loạn lật đổ để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Chúng lợi dụng tình hình xã hội nước ta vẫn tồn tại những sơ hở để tổ chức các đảng phái và lực lượng vũ trang phản động, lôi kéo phần tử thoái hóa, biến chất trong cơ quan Đảng, Nhà nước và phần tử cực đoan trong Nhân dân, nhanh chóng thành lập các đảng, tổ chức chính trị và lực lượng phản động, chống phá cách mạng Việt Nam; trước hết và chủ yếu bằng DBHB, nhưng để nhanh chóng đặt được mục đích đề ra và tạo áp lực lớn đối với ta, chúng kết hợp với thủ đoạn bạo loạt lật đổ.

Từ năm 1995 đến nay, sau thất bại trong âm mưu cô lập chống phá Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc buộc phải điều chỉnh chính sách, thủ đoạn chống phá, bỏ cấm vận kinh tế và bình thường hóa quan hệ về ngoại giao. Chủ nghĩa đế quốc đã chuyển thủ đoạn, biện pháp hành động kiên quyết sang thủ đoạn trực tiếp dính líu, ngầm, sâu, đẩy mạnh các hoạt động thâm nhập, chống phá cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Các thế lực thù định tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của đất nước” - Chúng tiếp tục thực hiện âm mưu DBHB, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định chống phá cách mạng Việt Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nhiều biện pháp, thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt, tập trung vào một số lĩnh vực sau:

Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định đã xác định chống phá về chính trị là khâu then chốt nhằm chuyển hóa chế độ xã hội chính trị của Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những thiếu sót, hạn chế của Đảng, Nhà nước, kích động những phần tử cực đoan, kích động thực hiện chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập để hạ bệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Địch tập trung chống phá ta về tư tưởng, lý luận, đồng thời khuyến khích những quan điểm lệnh lạc và những khuynh hướng xã hội dân chủ, làm chệch định hướng XHCN ở nước ta.

Thực hiện ý đồ trên, chúng đã dùng các biện pháp, thủ đoạn móc nối, kích động nhiều người chống lại quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của nhà nước. Tuyên truyền, gieo rắc chủ nghĩa thực dụng, văn hóa phương Tây, tạo tâm lý hưởng thụ, lối sống tư sản, qua đó từng bước tạo ra sự chuyển hóa tư duy, nếp nghĩ theo hướng đối lập với quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng sản. Chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo một số văn nghệ sĩ, phóng viên có xu thế cấp tiến, đầu tư ngầm cho một số cơ quan báo chí, truyền thông, mạng internet, in, xuất bản, từng bước thao túng và chi phối các lĩnh vực này. Các thế lực thù địch đặc biệt chú ý tác động làm chệch hướng XHCN thông qua chiến lược giáo dục - đào tạo, thúc đẩy sự phát triển các trường quốc tế... theo mô hình hệ thống giáo dục - đào tạo của Mỹ và phương Tây tạo nên làn sóng du học ở nước ngoài...

Trên lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch chủ trương dùng biện pháp kinh tế làm mũi nhọn, âm mưu thông qua hợp tác kinh tế để can dự vào nội bộ, dùng kinh tế gây sức ép tác động, chuyển hóa chính trị, lái nền kinh tế đi chệch hướng XHCN. Thông qua thủ đoạn chiếm lĩnh đầu tư, chi phối thị trường, để chống phá nền kinh tế Việt Nam. Thực hiện chủ trương tư nhân hóa tài sản, mở rộng kinh tế tư bản, tư nhân, kinh tế thị trường tự do, thu hẹp và làm suy yếu thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, tiến tới thiết lập một nền kinh tế tư bản dưới sự điều khiển của chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam. Hoạt động chủ yếu của chúng dùng sát thủ kinh tế tìm kiếm lợi ích ở Việt Nam, cố gây khủng hoảng kinh tế - xã hội, từ đó gây rối loạn chính trị, làm suy yếu và sụp đổ CNXH ở Việt Nam.

Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, lợi dụng chính sách tự do, tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta; cùng những thiếu sót trong công tác quản lý và trình độ dân trí còn thấp của một bộ phận Nhân dân để tổ chức truyền đạo trái phép, xuyên tạc đường lối của Đảng ở nhiều địa phương, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, theo đạo. Đồng thời, kích động, lôi kéo, tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng, lập các Đảng phái, tổ chức chính trị, lực lượng vũ trang gây rối, tiến tới bạo loạn lật đổ (như ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004...). Lợi dụng các lực lượng phản động trong các vùng dân tộc thiểu số, kích động Nhân dân đòi thành lập khu tự trị như các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ của nước ta thời gian qua.

Hiện tại và những năm tiếp theo, các thế lực phản động, thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề tự do, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để gây sức ép với Việt Nam, thực hiện âm mưu DBHB, bạo loạn lật đổ. Cho nên, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá Việt Nam vẫn là một trong những nội dung, biện pháp được Mỹ và các thế lực thù địch thường sử dụng. Chúng đang ra sức tuyên truyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo tại Việt nam, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tạo cớ kích động tín đồ đấu tranh chống chính quyền, kêu gọi quốc tế can thiệp. Vận động chính khách các nước và quốc hội Mỹ để đưa Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo. Khôi phục và thành lập các tổ chức, hội đoàn tôn giáo nhằm lôi kéo tín đồ tham gia hoạt động, phát triển lực lượng.

Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, âm mưu của địch là phi chính trị hóa quân đội và công an, vô hiệu hóa các lực lượng vũ trang trong cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN. Chúng tập trung chống phá hệ tư tưởng của Đảng trong quân đội; tuyên truyền kích động gây mơ hồ, chia rẽ mối quan hệ bản chất giữa Đảng với quân đội; quân đội với công an và các ngành khác, làm cho quân đội giảm lòng tin với Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu và nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội, làm cho quân đội mất bản chất cách mạng. Mặt khác, chúng chỉ đạo việc đầu tư vào những địa bàn dễ phá vỡ thế trận QPAN của ta.

Lợi dụng những biến động phức tạp trên thế giới và chính sách mở cửa hội nhập của Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức tác động đến các nước, các tổ chức và diễn đàn quốc tế gây sức ép đòi Việt Nam tôn trọng dân chủ, nhân quyền, thực hiện tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí... Đồng thời, gây áp lực buộc chúng ta phải nhân nhượng một số vấn đề chính trị trong nước, nhất là chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập”, thực hiện âm mưu hòa nhập Việt Nam vào ASEAN và lôi kéo Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Trên lĩnh vực ngoại giao, núp dưới danh nghĩa ngoại giao thân thiện để hướng Việt Nam theo quỹ đạo của phương Tây, tạo cơ hội chuyển hóa và đưa Việt Nam dần hòa nhập cùng cộng đồng các nước dân chủ phương Tây. Tăng cường tiếp xúc của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và tư nhân dưới nhiều hình thức như: thăm viếng, hội thảo, viện trợ nhân đạo, du lịch... để xuyên tạc đường lối của Đảng, gieo rắc tâm lý mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, tạo cơ hội chuyển hóa Việt Nam.

TIẾP TỤC KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ TO LỚN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA DÂN TỘC


Từ việc nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta càng cần phải tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc để tiếp thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như vận mệnh và tương lai của đất nước.

Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Từ khi thành lập đến nay, suốt hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thủ thách để đạt được những thành quả cách mạng to lớn. Đó là thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược và đặc biệt nhất là những thành công to lớn của 35 đổi mới đất nước. Thực tế phát triển đất nước qua hơn 35 năm đổi mới đã cho thấy, Việt Nam từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; mọi mặt đời sống của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đây là một sự thật lịch sử đã được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam tôn vinh chứ không phải giống như những luận điệu vu cáo của các thế lực thù địch: “Đảng tự vinh danh, tự đeo vòng nguyệt quế vào cổ cho mình quyền cầm đầu nhân dân”(12). Những thành tựu rất quan trọng của đất nước trong thời gian qua là cơ sở khách quan để khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu đó cũng ngày càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc đúng như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã khẳng định trong Diễn văn Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/2020): Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Thứ hai, có thái độ khách quan, công tâm khi nhìn nhận những khuyết điểm, thiếu sót của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót do giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Tuy nhiên, như một thông lệ không thể thiếu, trước mỗi kỳ Đại hội Đảng, nhất là kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, khi đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội qua một nhiệm kỳ, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, “tôn trọng hiện thực khách quan”, Đảng ta luôn thẳng thắn nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta coi những sai lầm, khuyết điểm là yêu cầu, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới, nhân dân phải tiếp tục đồng lòng để vượt qua những khó khăn, thử thách. Điều này được khẳng định rõ trong Báo cáo tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới của Đảng: “Những hạn chế, khuyết điểm đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa”.

Nhìn nhận lại những chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời gian qua thông qua những Nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (năm 2016), có thể nhận thấy tinh thần nghiêm túc trong tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng, làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc. Đây không phải là sự “chắp vá”, “giật gấu vá vai” như những luận điệu mà các thế lực thù địch vẫn rêu rao mà nó thể hiện quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng trong việc “tự sửa mình” và đào tạo, huấn luyện cán bộ, đảng viên. Do đó, cần có thái độ khách quan, công tâm khi xem xét những sai lầm, khuyết điểm của Đảng. Cần tránh cả hai xu hướng xem nhẹ, bỏ qua những khiếm khuyết hoặc tuyệt đối hóa, thổi phồng những khuyết điểm bởi cả hai xu hướng này hoặc là dẫn đến thái độ chủ quan, lơ là; hoặc dẫn đến thái độ cực đoan, bất mãn. Sai lầm, khuyết điểm của Đảng, nhất là của một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong thời gian qua là một bài học đắt giá cho công tác xây dựng Đảng nhưng không vì thế mà đánh đồng với đóng góp của biết bao thế hệ đảng viên với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cũng không vì thế mà đưa ra những lời rêu rao theo kiểu chụp mũ, vô căn cứ là “không ai muốn sống ở Việt Nam”, “những kẻ lắm tiền, nhiều của là thành phần cán bộ có chức có quyền đã tìm mọi cách đem gia đình chạy khỏi Việt Nam sau khi đã vơ vét đầy túi”.

Thứ ba, tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lòng dân của ĐCSVN.

Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây là sự kế thừa các bản Hiến pháp trước đó như Hiến pháp năm 1980, năm 1992 đồng thời thể hiện ý chí, nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp. Hơn nữa, chính nhân dân Việt Nam đã tin tưởng lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất sự nghiệp cách mạng trong suốt thời gian qua.

Hơn nữa, mối quan hệ của Đảng với Nhân dân là mối quan hệ máu thịt bởi Đảng vì Nhân dân là phấn đấu, tôi luyện, trưởng thành, lấy hạnh phúc cho Nhân dân là mục tiêu phấn đấu; ngược lại, Nhân dân cũng luôn vững tin theo Đảng, cùng chung tay giúp sức xây dựng và chỉnh đốn Đảng, sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân chính là nguồn gốc sức mạnh và nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Do đó, “luận điệu phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội của các thế lực thù địch là hoàn toàn trái với nguyện vọng, sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân Việt Nam. Mọi công dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác, không mắc mưu kẻ địch phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội của chúng ta”.

 Như vậy, nhận diện các quan điểm sai trái về Đảng Cộng sản Việt Nam để chúng ta - những người cộng sản luôn cảnh giác trước những luận điệu công kích, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Quan trọng hơn nữa, chúng ta cũng có dịp nhìn lại hành trình hơn 90 năm ra đời và phát triển của Đảng, cảm thấy tự hào về những thành tựu to lớn, nổi bật của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời không được chủ quan, lơ là trước những sai lầm, khuyết điểm để có ý thức xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam để mỗi đảng viên thêm vững tin vào Đảng, luôn trọn một niềm tin theo Đảng, cùng sát cánh bên Đảng để vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên những chặng đường tiếp theo.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam với mục đích “tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, đưa ý thức hệ tư sản thâm nhập sâu rộng vào đời sống tinh thần của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Một trong những vấn đề bị các thế lực thù địch tấn công nhiều nhất là vai trò lãnh đạo, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, cần nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đó để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ những thành quả cách mạng to lớn mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 92 năm qua.

* Nhận diện những quan điểm sai trái, thù địch về ĐCSVN

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng việc chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, chia rẽ nội bộ, gây mất ổn định về chính trị nhằm cản trở quá trình Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch về Đảng Cộng sản Việt Nam theo các hướng chủ yếu sau:

Thứ nhất, những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Trong thời gian qua, các thế lực thù địch đã cố tình xuyên tạc, bóp méo để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Chúng cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ, dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ sức để lãnh đạo đất nước.

Từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là sự tụt hậu về kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực, các thế lực thù địch đã lên tiếng đổ lỗi cho Đảng ta lãnh đạo đất nước không hiệu quả nên cần phải “trả lại cho nhân dân Việt Nam quyền tự quyết định vận mệnh của chính mình và của đất nước”. Với danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các thế lực thù địch đã khuyên nước ta cần phải đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện chính sách “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập” vì Đảng có “một bộ máy đã tạo nên một xã hội không có tự do, dân chủ”. Chúng cho rằng: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”. Chúng lập luận rằng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội là theo “chế độ đảng trị = đảng chủ”, “thể chế Việt Nam hiên nay là không phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Chế độ một Đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”, “Hiến pháp của Việt Nam là không chính danh, chỉ là Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam độc tài, toàn trị”.

Như một thông lệ, trước thềm các kỳ đại hội của Đảng, các thế lực thù địch lại tấn công mạnh mẽ vào vai trò lãnh đạo của Đảng bằng những luận điệu xuyên tạc. Điển hình là trước khi Đại hội XII diễn ra, đã có những luận điệu vu khống cực kỳ phản động: “Cộng sản khinh dân, Đảng Cộng sản đã mạo nhận là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Trong lịch sử, không có khi nào Đảng Cộng sản phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà cộng sản chỉ lợi dụng công nhân và nhân dân lao động để phục vụ quyền lợi của Đảng Cộng sản”. Từ việc đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch còn lên tiếng đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận đường lối cách mạng của Đảng, phủ nhận công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Bên cạnh việc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua, các thế lực thù địch còn ra sức xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng qua các cương lĩnh, văn kiện. Các thế lực thù địch cho rằng, việc ban hành các cương lĩnh, văn kiện là thể hiện sự “chuyên quyền”, “độc đoán”, “đảng trị”, thể hiện sự “sự chuyên chính của một đảng”, “sự thống trị quan liêu của giới thượng lưu”. Những luận điệu này được các thế lực thù địch tung ra ngày càng nhiều nhằm phá hủy lòng tin của Nhân dân với Đảng, chia rẽ Đảng với Nhà nước, đối lập Đảng và Nhà nước với Nhân dân. Chúng tập trung tuyên truyền những luận điệu này ngày càng nhiều nhằm kêu gọi nhân dân phải “tỉnh ngộ”, từ bỏ đường lối lãnh đạo của Đảng. Trắng trợn hơn, chúng còn đưa ra luận điệu đòi “đánh đổi chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lấy sự cam kết của một số cường quốc phương Tây, làm đối trọng với Trung Quốc để giữ gìn độc lập, chủ quyền của đất nước và lợi ích quốc gia dân tộc”.

Trọng tâm của sự công kích, chống phá cương lĩnh, văn kiện của Đảng là sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch về con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề dân tộc, dân chủ, tôn giáo, nhân quyền… Dễ dàng nhận thấy thực chất của sự chống phá này là phủ nhận đường lối xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra trong các cương lĩnh chính trị; từ đó cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản nhằm gây nên sự hoang mang, dao động của nhân dân về con đường phát triển đất nước, sâu xa hơn nữa là nhằm phá vỡ từng mảng nền tảng tư tưởng của Đảng ta, tạo ra sự khủng hoảng chính trị, làm chệch hướng con đường mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Bên cạnh những luận điệu phủ nhận về đường lối lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch còn ra sức tấn công vào công cuộc xây dựng Đảng hiện nay. Chúng cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã quá khôn ngoan khi đưa vấn đề xây dựng Đảng thành vấn đề then chốt nhưng đó chỉ là kiểu “giật gấu vá vai”. Tình trạng này tất yếu sẽ khiến Đảng đổ vỡ và tan rã”. Chúng còn dự đoán tình hình sẽ ngày càng có nhiều sự phản ứng quyết liệt của nhân dân chống lại Đảng: “Trước tình hình cai trị độc tài, vô hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”.

Thứ ba, những quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc về cán bộ lãnh đạo của Đảng.

Trong hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, một mục tiêu mà các thế lực thù địch luôn hướng tới là các cán bộ lãnh đạo của Đảng. Vì xác định đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính là “linh hồn” của Đảng nên các thế lực thù địch đã ra sức xuyên tạc sự thật, bôi nhọ hình ảnh của các lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp cao của Đảng nhằm tạo nên sự hoài nghi, mất niềm tin của nhân dân. Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng truyền thông, nhất là mạng xã hội để phát tán các bài viết, video, clip xuyên tạc về cuộc đời và sự nghiệp của các lãnh tụ của Đảng, các cán bộ lãnh đạo nhằm tạo ra sự bất mãn trong nhân dân, kích động “phản biện xã hội”, nhất là vào các dịp trước, trong và sau Đại hội Đảng. Gần đây, các thế lực thù địch còn triệt để lợi dụng các hiện tượng tiêu cực, nhất là tình trạng tham nhũng, “lợi ích nhóm”, các mâu thuẫn xã hội để kích động nhân dân đứng lên khiếu kiện tập thể, gây rối trật tư công cộng, bêu riếu một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; từ đó tạo điều kiện để cho các phần tử cơ hội chính trị nước ngoài tham gia gây nên tình trạng mất ổn định chính trị nghiêm trọng tại một số địa phương.

Trước thềm Đại hội XIII, “đến hẹn lại lên”, các thế lực thù địch ra sức đồn đoán về tình hình nhân sự của Đại hội Đảng, tìm mọi cách để xuyên tạc, bôi nhọ những đồng chí có tên trong danh sách bầu cử Đại hội Đảng các cấp, nhất là nhân sự của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Một âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch khi thực hiện sự chống phá này là chúng móc nối, xâm nhập vào nội bộ của Đảng, tìm cách phân hóa tổ chức để tìm ra “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. “Ngọn cờ” mà các thế lực thù địch hướng tới chính là những phần tử ở ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhưng có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn chính trị. Đây chính là những kẻ “tay trong” được các thế lực thù địch lợi dụng nhằm lấy thông tin để thêu dệt, xuyên tạc về các lãnh tụ của Đảng nói riêng và công tác nhân sự của Đảng nói chung.

Có thể nhận thấy, các thế lực thù địch đã dùng những chiêu bài, thủ đoạn rất tinh vi để xuyên tạc, phủ nhận Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục đích lớn nhất của những chiêu bài này là nhằm hạ bệ uy tín của Đảng, kêu gọi thực hiện “đa nguyên chính trị”, từ đó tiến tới xây dựng một chế độ chính trị mới ở Việt Nam do các thế lực thù địch, phản động giật dây, điều khiển. Đây là một âm mưu rất nguy hiểm, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ nên cần được tỉnh táo nhận diện.

THỦ ĐOẠN MÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Thủ đoạn mà các thế lực thù địch, cơ hội chống phá cách mạng Việt Nam trên các lĩnh vực chúng đã tiến hành theo đuổi hàng chục năm nay. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, chúng tiến hành quyết liệt hơn, đề cập nhiều vấn đề, trên phạm vi rộng lớn hơn với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

Thế mạnh hiện nay là các phương tiện thông tin đại chúng, để tác động vào tinh thần, tâm lý của Nhân dân, Quân đội ta.

Thông qua hàng trăm tờ báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình của các tổ chức phản động ở nước ngoài, hàng trăm website… kẻ thù đang hàng ngày, hàng giờ vu khống, nói xấu Đảng ta, chế độ ta, kích động, chia rẽ và hô hào lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.

Phát tán các tài liệu phản động, thành lập các tổ chức phản động người Việt lưu vong. Viết “Những bức thư ngỏ”, “Những phát biểu”, “Kiến nghị” tưởng như chỉ để bày tỏ suy nghĩ trước thực trạng đất nước nhưng thực chất là xuyên tạc, thêm thắt theo ý đồ phản động, thù địch.

Thông qua du lịch, chúng đưa vào Việt Nam những tài liệu có nội dung cực kỳ phản động; các trang Web đồi truỵ, phản động để ru ngủ thanh, thiếu niên.
          Tận dụng các đảng viên trẻ, hợp tác về khoa học, giáo dục và đào tạo để hòng tạo ra một lớp người tương lai, là hạt giống cho chiến lược “diễn biến hoà bình”.

Thông qua con đường văn học nghệ thuật để phá hoại chúng ta về tư tưởng, văn hoá. Các thế lực thù địch tiếp tục công khai đòi Nhà nước ta cho phép ra báo tư nhân, khuyến khích khuynh hướng văn nghệ đối lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng với văn hoá, văn nghệ, viết những tác phẩm nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa, đả kích Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chúng lợi dụng tự do tôn giáo, vấn đề dân tộc để thành lập hội, đoàn, đưa người của chúng vào các cơ quan nhà nước để hòng phục vụ cho mưu đồ lật đổ từ bên trong.

Thông qua viện trợ kinh tế, quan hệ mậu dịch, hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết và qua các tổ chức phi chính phủ, các hình thức hợp tác về văn hoá, khoa học, giáo dục …để thâm nhập sâu vào nội bộ, tác động vào những cơ quan, những cán bộ tham gia hoạch định đường lối, chính sách. Gây sức ép qua con đường ngoại giao; mời đến thăm, tổ chức hội thảo khoa học để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá ta về tư tưởng, lý luận.

Kích động các phần tử bất mãn, cơ hội trong nước, đẩy mạnh hoạt động gây rối, phá hoại, chống đối về chính trị - tư tưởng.

Để đấu tranh chống lại các thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá, mỗi chúng ta luôn chủ động, tích cực tìm những định hướng tư tưởng đúng đắn, đấu tranh kiên quyết với những tư tưởng lệch lạc sai trái, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội và sự phát triển nền kinh tế đất nước. Nhờ đó mà niềm tin, nhận thức của cán bộ, đảng viên nhân dân về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin, về đường lối của Đảng ngày càng được giữ vững./.

TỰ DO VÀ TỰ DO NGÔN LUẬN - ĐÓ LÀ GIÁ TRỊ VÀ LÀ QUYỀN CON NGƯỜI.


Đề cập đến điều này, không phải tới tận xã hội cận hiện đại mới có, mà từ thời cổ đại cả ở phương Tây và phương Đông đều nêu lên rồi. Chẳng hạn, Solon, vị chính khách thời cổ đại Hy Lạp cho rằng, muốn có tự do và công bằng thì chúng ta phải đặt luật pháp ngang hàng với sức mạnh (chính trị). Tới thế kỷ XVIII, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp đã chính thức khẳng định: “tự do là quyền của con người được làm tất cả những gì mà không phương hại đến quyền của người khác”.

Ở Trung Quốc cổ đại, Tử Sản, khi còn làm quan nước Trịnh (thời Xuân Thu) đã đặt ra quy định cho phép mọi người dân được phê bình kẻ chấp chính, hay Chiêu Công Hổ - một quan đại thần nhà Tây Chu đã ví việc tạo điều kiện cho người dân có thể nêu ý kiến về mọi việc trong đời sống xã hội chẳng khác gì khơi thông dòng nước cho con sông chảy ra biển.

Đối với Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây (cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà trong đó, quyền tự do ngôn luận được đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản Yêu sách. Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam go, gian khổ để hiện thực hóa thành công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do ngôn luận tiếp tục được khẳng định và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp 2013.

Khái lược một số thông tin lịch sử để thấy rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, đã phải trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm chí hy sinh xương máu của bao thế hệ. Vì lẽ đó, quyền tự do ngôn luận nhất quyết không phải là thứ mà những kẻ nào đó đem tới đất nước này để rao giảng, dạy dỗ hay xuyên tạc, bịa đặt về việc thực hiện nó trong cuộc sống. Nó cũng không phải là một quyền mà một bộ phận với nhận thức nông cạn, nửa vời, thô thiển có thể sử dụng để dễ dãi lên tiếng phê phán, chỉ trích, kích động, nói xấu vô căn cứ đối với các cá nhân, tổ chức. Thậm chí, trong bối cảnh hiện nay, một bộ phận xã hội tự cho mình cái quyền tự do ngôn luận lại “tung tăng buông lời trên mạng” một cách vô nguyên tắc.

Vậy thì, muốn thực hiện tự do ngôn luận, trong đó cụ thể ở đây là tự do ngôn luận trên mạng, đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tuân thủ và đáp ứng một số yêu cầu sau:

Một là, phải nắm vững, hiểu rõ những quy định của pháp luật có liên quan. Công dân Việt Nam phải hiểu biết đầy đủ, chính xác pháp luật, biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Chỉ khi thực hiện quyền tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật sẽ mang đến cho họ quyền tự do, không xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.

Hai là, tự do ngôn luận, nhất là tự do ngôn luận trên mạng là tự tương tác của cá nhân có thể diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ít chịu sự giám sát, phê duyệt mang tính tổ chức, chính vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tự chịu trách nhiệm đối với mỗi lời nói, câu viết của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng xã hội, không phải thích nói và viết một cách bừa bãi, cảm tính nhất thời. Thực hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng phải chính đáng, có tính mục đích tiến bộ rõ ràng, mang tính xây dựng, mang đến điều tốt đẹp, tích cực cho bản thân, cộng đồng, xã hội và quốc gia.

Ba là, tự do ngôn luận trên mạng là được bày tỏ quan điểm, chính kiến trên các báo mạng, diễn đàn, mạng xã hội, v.v.. Cho nên, cá nhân công dân bên cạnh việc tuân thủ những quy định của pháp luật chung, còn phải tuân thủ Luật Báo chí, đưa tin lên mạng phải trung thực, đúng sự thật, không được bóp méo, cắt gọt gây hiểu lầm hoặc khi đánh giá, phê bình phải có căn cứ rõ ràng.

Bốn là, thực hiện quyền tự do trên mạng phải phù hợp với văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lời nói hay câu viết cần phải phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt. Khi bình phẩm, nhận xét phải có lời lẽ ôn hòa, văn minh, lịch sự, không được sử dụng ngôn từ cực đoan, gay gắt hay lai căng mang tính lăng mạ, sỉ nhục, kỳ thị người khác.

Thực hiện quyền tự do ngôn luận nói chung và tự do ngôn luận trên mạng nói riêng là điều hoàn toàn chính đáng và được bảo đảm thực hiện trong xã hội. Mỗi cá nhân công dân cần nhận rõ quy định pháp luật liên quan, nhận rõ tư duy và hành vi xử sự của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ, văn minh và phát triển./.


BÀI VIẾT ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG TA


 Giữa lúc Đảng, Nhà nước ta đang ra sức lãnh đạo, chỉ đạo với tinh thần quyết tâm chính trị cao trong đấu tranh chống tham nhũng, làm thất thoát tài sản của Nhà nước và nhân dân trong thời gian qua, mục đích là làm trong sạch bộ máy của Đảng. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội ra sức chống phá. Do vậy, trách nhiệm chúng ta là phải nhận thức rõ, đấu tranh kiên quyết với những âm mưu, thủ đoạn đó.

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, trong đó vấn đề xử lý tham nhũng, thiếu tinh thần trách nhiệm làm thất thoát tài sản của Nhà nước trong thời gian gần đây. Chúng ta thừa nhận rằng, dù chế độ nào thì tham nhũng là tệ nạn mang tính toàn cầu, mọi quốc gia đều phải đối mặt. Nguyên nhân dẫn đến là không phải do chế độ chính trị hay đảng phái nào lãnh đạo. Nhưng các thế lực thù địch cho rằng “chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”, hay tham nhũng chỉ xuất hiện ở những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tế trong thời gian qua chúng ta thấy ở một số nước vẫn xảy ra tình trạng này thậm chí như là cựu tổng thống Hàn Quốc hay cựu thủ tướng Thái Lan… Qua đó, chúng ta thấy đây là những chiêu bài của các thế lực thù địch với mục đích là nhằm làm giảm uy tín và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Khi Đảng và Nhà nước ta kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên thì chúng xuyên tạc cho rằng thực chất đây là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng” hay đang đấu đá lẫn nhau. Xuyên tạc ý kiến chỉ đạo trong xử lý các sai phạm của cán bộ, đảng viên của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết nội bộ.

Do vậy, cần khẳng định những âm mưu luận điệu xuyên tạc trên không thể phủ nhận quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta. Trên thực tế, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng đều được đưa ra truy tố, xét xử nghiêm minh, đúng pháp luật, không có vùng cấm, không ngoại lệ. Có thể sơ bộ thống kê từ đầu năm 2022 đến nay, các cơ quan tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 1.264 vụ/2.038 bị can, truy tố 742 vụ/1.594 bị can, xét xử sơ thẩm 737 vụ/1.567 bị cáo về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ. Trong đó, đã khởi tố, điều tra nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; đã khởi tố 8 cán bộ diện Trung ương quản lý. Điều đó cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang đi đúng hướng và được thực hiện rất quyết liệt, hiệu quả với quyết tâm chính trị cao nhất. Qua đó đã củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Kết quả đó khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước; đồng thời, minh chứng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm nhiều cán bộ, đảng viên, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì động cơ trong sáng, lành mạnh của Đảng. Kết quả đó càng chứng tỏ luận điệu của các thế lực thù địch là xuyên tạc, bịa đặt vô căn cứ.

Xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên sai phạm không phân biệt chức vụ cao hay thấp, càng nhấn mạnh đó là sự thống nhất ý chí và hành động. Làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng như toàn xã hội đã đặt trọn niềm tin vào Đảng.

Để tiếp tục phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc thành tựu phòng, chống tham nhũng tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; nhất là, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ban Chỉ đạo Trung ương, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; phải tiến hành đồng bộ các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với phương châm “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng”, “dọc ngang thông suốt”, tránh “trên nóng, dưới lạnh”, “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”… làm cho dân tin vào Đảng và mỗi đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Thời gian tới, trước sự chống phá ngày càng quyết liệt và tinh vi của các thế lực thù địch. Dù như thế nào cũng không ai có thể phủ nhận, xóa bỏ những thành quả mà chúng ta đã đạt được, không ai có thể làm giảm ý chí quyết tâm chiến đấu của Đảng ta. Vấn đề đặt ra là phải đề cao cảnh giác, nhận rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, để từ đó đấu tranh có hiệu quả, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh./.


HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG


Thời gian qua, một số cá nhân, tổ chức tán phát bài “Chuyện củi lò hiện nay là phần lớn là để yên dân và bài “Ngăn chặn tình trạng phạm tội của giới quan chức vô phương trong chế độ độc đảng” nội dung xuyên tạc công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, vu cáo Đảng “bao che” cho tội phạm tham nhũng, tiêu cực; bôi nhọ nói xấu Đảng, nói xấu chế độ; kích động người dân đấu tranh xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng.

Thực tế cho thấy trong những năm qua, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Ðảng, Nhà nước đã đạt được những thành quả to lớn như ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018… Những văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc phòng, chống tham nhũng và góp phần rất to lớn vào công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay và để phòng, chống tham nhũng, Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan nhà nước khác đã thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Thực hiện các biện pháp về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Đổi mới khoa học công nghệ quản lý và phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phòng ngừa tham nhũng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đấu tranh phòng, chống tham nhũng với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt, Ban Chỉ đạo Phòng, chống tham nhũng Trung ương, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cùng với Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá cao. Kết quả cụ thể như sau:

Trong 10 năm qua cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.

Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 Ủy viên, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.

Qua công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975.000 tỉ đồng, gần 76.000 ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Công tác thu hồi tài sản tham nhũng có chuyển biến tích cực; cơ quan thi hành án dân sự các cấp đã thu hồi 61.000 tỷ đồng, đạt 34,7%, trong khi năm 2013, tỷ lệ này chỉ đạt dưới 10%. Riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã thu hồi được gần 50.000 tỷ đồng, đạt 41,3%.

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp. Trong lĩnh vực này dù “không có tiếng súng” nhưng cũng đầy nguy hiểm. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, “trên - dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”, cùng với việc hoàn thiện khung khổ pháp luật, nạn tham nhũng, tiêu cực chắc chắn sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi./.

“LẬP LỜ ĐÁNH LẬN CON ĐEN” - THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Thời gian qua, sau khi bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được đăng tải, các thế lực thù địch đã phát tán nhiều bài viết, bình luận trên nền tảng mạng xã hội và một số website, tờ báo nước ngoài có tư tưởng phản động chống phá Việt Nam như: Danlambao, kênh VOA Tiếng Việt, Đài Á Châu Tự Do… với nội dung xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nội dung bài viết trên. Chúng cho rằng Tổng Bí thư đã đưa ra “hệ thống lý luận cũ kỹ, không còn phù hợp với thời đại”, “lạc nhịp”, “lỗi thời” và Việt Nam “lợi dụng tự do, dân chủ, tuyên truyền chống phá các nhà nước tư bản”; phản đối chế độ một đảng lãnh đạo ở Việt Nam; bôi nhọ, nói xấu chế độ ta. Thực chất đây là những luận điệu sai trái, thông tin sai sự thật, “lập lờ đánh lận con đen”, cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò chủ nghĩa Mác lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Những lập luận chặt chẽ trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thể hiện tầm tư tưởng, giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, là kim chỉ nam tiếp tục chỉ đạo nhiệm vụ quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cho công cuộc đổi mới của đất nước trong thời gian tới. “Hiện nay, gần 1,5 tỷ người trên hành tinh vẫn đang đi theo con đường XHCN với những thành tựu đáng trân trọng và tự hào. Dù còn nhiều khó khăn, thách thức, phức tạp, nhưng sự phát triển của các nước XHCN hiện nay (Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba…) đã chứng minh rằng CNXH vẫn là hiện thực, là thực tế, là một chế độ xã hội tốt đẹp nhất trong lịch sử nhân loại đến ngày nay”. Tuy nhiên, không chấp nhận thực tế đó, những kẻ thù địch với chế độ XHCN ở trong và ngoài nước lại cố tình bịa đặt, lèo lái, dẫn dắt đánh lừa dư luận nhằm thực hiện mưu đồ phản động của mình bằng ngôn ngữ xấu, độc, võ đoán khi cho rằng: ”chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hoàn toàn không có bình đẳng xã hội, không có an sinh, phúc lợi xã hội gì cả, mọi thứ đều phải trả bằng tiền”. Có lẽ nào chúng muốn dân tộc ta phải đi tìm cái bình đẳng của phương Tây khi mà một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4  nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng và do đó chi phối toàn xã hội. Trong nhiều bài viết chống phá con đường đi lên CNXH ở nước ta, các thế lực thù địch thường xuyên so sánh vấn đề dân chủ ở Việt Nam và vấn đề dân chủ phương Tây nhưng họ không hiểu rằng trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át và người dân mất đi chính quyền làm chủ của chính mình. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; núp đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự thống trị của các tập đoàn tư bản.

Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là không thể phủ nhận; những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta là có thực, đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ CNXH ở Việt Nam. Đó là những khó khăn, trở lực cả khách quan lẫn chủ quan đang từng ngày, từng giờ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ, mà thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cũng từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãnh phí, thoái hóa… trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị. Thực tế công tác xây dựng Đảng ở nước ta và những quyết tâm của đồng chí Tổng Bí thư trong bài viết là sự tiếp nối của tư tưởng Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Tiếp cận dưới góc độ một bài viết có tính lý luận cao, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng lập luận khoa học, thuyết phục qua những thành tựu xây dựng CNXH, thể hiện tập trung ở giải trình bản chất chế độ XHCN ở Việt Nam. Đó là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, kể cả phản bác đanh thép, sắc bén trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta./.