Thứ Năm, 26 tháng 4, 2018

THỦ ĐOẠN “XÀO XÁO THÔNG TIN”






Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội và internet xuất hiện nhiều thông tin xấu độc, bịa đặt, xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội, nhất là những thông tin liên quan đến cán bộ, chiến sĩ Quân đội như: Hình ảnh chiến sĩ cũ bắt nạt chiến sĩ mới; cán bộ, sĩ quan uống rượu, bia; bộ đội xô xát với nhân dân…

Hầu hết các vụ việc trên là do một số kẻ cơ hội tạo dựng, hoặc tô vẽ, nhào nặn, gán ghép, trong đó đáng chú ý là thủ đoạn chiếm dụng tài khoản cá nhân, “làm mới thông tin cũ, bịa đặt thông tin mới” nhằm xuyên tạc sự thật, bôi nhọ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ. Thủ đoạn chiếm dụng tài khoản cá nhân (Gmail, Facebook, Twitter…) được thực hiện khá tinh vi, thông qua việc dẫn dụ cán bộ, chiến sĩ sử dụng mạng xã hội và internet vào xem các tin, bài viết, hình ảnh, tin nhắn “giật gân”, “câu khách”… qua đó sử dụng các thao tác kỹ thuật để lấy cắp thông tin của người dùng, nhất là những thông tin có liên quan đến hoạt động quân sự, quốc phòng, quan hệ gia đình, xã hội, sinh hoạt cá nhân, rồi đem gán ghép, trộn lẫn thông tin thật - giả, phát tán trên các trang mạng xã hội và internet…
Mỗi người sử dụng internet và mạng xã hội cần có cái nhìn khách quan, để không bị nhầm lẫn giữa hiện tượng cá biệt với bản chất sự việc và không nên tán phát, chia sẻ các thông tin, hình ảnh, clip... có nội dung xấu độc khi bản thân mình chưa tìm hiểu kỹ xem sự việc đó, thông tin đó đúng-sai thế nào, để tránh mắc mưu những kẻ chuyên cắt xén, bịa đặt thông tin./.
Da hanh


Chủ động, cảnh giác trước những âm mưu, luận điệu “Phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch



Hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế đã mang lại cho các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam ta nói riêng “luồng gió mới” trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi, tích cực, bối cảnh trên cũng mang lại không ít khó khăn, tiêu cực cho chúng ta. Nhiều năm gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng (đặc biệt là những trang web không chính thống trên mạng Internet với những bài viết, bình luận, diễn đàn tự do), chúng ta vẫn thấy có không ít người phát ngôn ra những quan điểm sai trái, phản khoa học về nguồn gốc, bản chất quân đội như: quân đội là lực lượng “phi giai cấp”, chỉ cần làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ lãnh thổ tự nhiên, không cần phải bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN và phải “trung lập chính trị”, không bị lãnh đạo, ràng buộc bởi Đảng Cộng sản Việt Nam thì mới tăng uy quyền, sự linh hoạt, chủ động của mình… 
Những luận điểm trên vừa thể hiện sự thiếu cảnh giác, sự mơ hồ của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta, vừa thể hiện sự chống phá, xuyên tạc về bản chất giai cấp, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch, đánh đồng quân đội cách mạng của ta với quân đội nhà nghề của các nước tư sản. Do vậy, làm rõ âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch và định hướng các giải pháp để Quân đội nhân dân Việt Nam cảnh giác, phòng chống âm mưu đó là việc làm cần thiết.
Có rất nhiều khía cạnh nghiên cứu với những kết quả khác nhau song chúng ta có thể hiểu về thực chất âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” trên những nét cơ bản sau: Đây là âm mưu cực kỳ nham hiểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm tước bỏ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; làm biến chất bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam; làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, dẫn đến bị vô hiệu hóa. 
Nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch đã, đang và sẽ phủ nhận “Điều 4” trong Hiến pháp hiện hành của nước ta (xác định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội); rêu rao những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn trong quá khứ và những vấp váp trong công cuộc đổi mới hiện nay; đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Dan tri

Nhận diện biểu hiện “Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ và giải pháp khắc phục:


“Lợi ích nhóm” có trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy, nó có cả trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong công tác tổ chức, cán bộ nói riêng với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Cần sớm có chủ trương, giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện này.
Khái niệm “lợi ích nhóm” 
“Lợi ích nhóm” là một cụm từ, một thuật ngữ đang được nhắc đến nhiều trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đang làm cho nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và các tầng lớp nhân dân quan tâm nhìn nhận, mổ xẻ dưới nhiều cách nhìn với các cấp độ, góc độ khác nhau. Lợi ích thường liên kết con người với nhau, và vì vậy phân chia ra các nhóm, giai tầng khác nhau. Chính vì thế mà có lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, hay lợi ích giai cấp...
Từ “lợi ích nhóm” có thể hình thành nên nhóm lợi ích, nhóm xã hội. Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm xuất hiện ngày càng nhiều nhóm lợi ích khác nhau, các nhóm này vừa có thể có lợi ích chung, vừa có lợi ích riêng, có lợi ích tích cực, có lợi ích tiêu cực.
         Như vậy, có thể hiểu lợi ích nhóm như sau: Lợi ích nhóm là lợi ích của một nhóm người liên kết với nhau, hỗ trợ nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau có lợi ích và bảo vệ lợi ích đó. Xét về mục đích và bản chất, lợi ích nhóm có thể chia thành lợi ích nhóm tích cực và lợi ích nhóm tiêu cực. Lợi ích nhóm tích cực là lợi ích chính đáng, hợp pháp của một nhóm người. Việc hình thành nó là nhu cầu khách quan, chính đáng, tự nhiên trong xã hội tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, nhiều nhóm người với những đặc điểm, hoàn cảnh khác nhau. Còn lợi ích nhóm tiêu cực là “lợi ích” mà nhóm thu được nhằm vào các “tình huống” hay “phi vụ” nhạy cảm, không lành mạnh, mờ ám, thiếu minh bạch. Bài viết giới hạn ở việc phân tích những biểu hiện của lợi ích nhóm tiêu cực (gọi tắt là lợi ích nhóm) trong công tác tổ chức, cán bộ.
“Lợi ích nhóm” trong công tác tổ chức, cán bộ
      Trong công tác tổ chức, cán bộ, biểu hiện của lợi ích nhóm cũng rất đa dạng, phức tạp, có trong tất cả các công đoạn, các khâu, các bước trong quy trình hoạt động của công tác tổ chức, cán bộ. 
     Thứ nhất, lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác tổ chức,cán bộ. 

Biểu hiện lợi ích nhóm trong việc ban hành chủ trương, chính sách về công tác cán bộ là một bộ phận cán bộ tham mưu, khi tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành chính sách có liên quan đến công tác cán bộ thì không vì chính sách, lợi ích chung mà tham mưu, ban hành những chính sách có lợi cho họ (ví dụ: nới lỏng hơn các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, chuyển ngạch, nâng ngạch,...). Biểu hiện khác của tình trạng này là những cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ đã nghiên cứu, tham mưu xây dựng, ban hành chính sách cán bộ “dưới tiêu chuẩn, điều kiện cơ bản” (như điều kiện tiếp nhận, điều chuyển, bố trí công tác, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt hoặc được đi học, đi công tác nước ngoài) để người thân của họ, hoặc cán bộ lãnh đạo có đủ điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện đó; ban hành chính sách, quyết định, nhiều khi mang tính “nội bộ”, có tính chất đặc quyền, đặc lợi cho một số ít cán bộ, trái với quy định hoặc theo quy định của Nhà nước nhưng không minh bạch để trục lợi.
        Thứ hai, lợi ích nhóm trong việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của cấp trên về công tác tổ chức, cán bộ thành các quy định, quy chế, quy trình cụ thể của cấp dưới để trục lợi.
Có tình trạng quy định của cấp trên về chính sách, chế độ chung của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ không được cấp dưới cụ thể hóa bảo đảm đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục.
Họ “vận dụng” ban hành chính sách, chế độ đối với cán bộ vì lợi ích nhóm của số ít cán bộ lãnh đạo, cán bộ làm công tác tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ, dẫn đến việc thực hiện trái quy định của cấp trên vì nhiều lý do hoặc luôn có sự thay đổi để cho “vừa” với những tiêu chuẩn, điều kiện cá biệt của một số ít cán bộ lãnh đạo, quản lý để trục lợi cho bản thân hoặc cho người thân của mình theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách” làm thiệt hại cho lợi ích chung của cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có nơi, đáng lẽ phải vận dụng quy định của cấp trên để ban hành chính sách về công tác cán bộ của cấp mình phù hợp nguyên tắc, chủ trương, quy định, nhưng lại vận dụng ban hành trái quy định nhằm “lách luật” để có lợi cho bản thân hoặc người thân của mình trong việc tuyển dụng, đề bạt, thực hiện các chính sách cán bộ khác, như mở tuổi để được đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử, kéo dài thời gian công tác,...
     Thứ ba, lợi ích nhóm trong việc chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về công tác tổ chức, cán bộ. 
Biểu hiện của lợi ích nhóm này dễ thấy nhất và đang phổ biến hiện nay là cán bộ lãnh đạo trong một số doanh nghiệp nhà nước đã chỉ đạo xây dựng chính sách lương, chính sách thu nhập có lợi cho họ, dẫn đến chính sách lương “khủng” - “thu nhập quá cao” trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý của một số doanh nghiệp, lĩnh vực ngành, nghề; hoặc ban hành, thực hiện những chủ trương, chính sách cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hằng năm đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài quá nhiều lần, gây tốn kém, lãng phí, thất thoát kinh phí của cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Một biểu hiện nữa của lợi ích nhóm trong tổ chức thực hiện công tác cán bộ là cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo, quản lý tuy biết cán bộ cấp dưới thuộc “cánh hẩu” của mình, trình độ năng lực hạn chế, nhưng vẫn bổ nhiệm, đề bạt, bao che để tạo thành một “ê-kíp” cán bộ làm việc vì lợi ích nhóm để trục lợi. Trong khi đó, cán bộ có đủ năng lực, trình độ, điều kiện thì không được quan tâm quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đúng khả năng, sở trường của họ, khiến họ “bất bình”, thậm chí đi tìm cơ hội làm việc ở những nơi khác.
      Thứ tư, lợi ích nhóm trong việc tổ chức thực hiện công tác tổ chức, cán bộ. 
Biểu hiện này thể hiện ở một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ thuộc phe, cánh của người lãnh đạo đã tham mưu trong việc bố trí người thân của họ dù trình độ năng lực yếu, phẩm chất đạo đức kém, kinh nghiệm công tác không có vào những chức vụ, vị trí công tác có nhiều “lợi thế, màu mỡ, quyền thế” để trục lợi theo kiểu “quyền đi liền với lợi lộc, quyền đi liền với tiền”.
Trong khi những cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức tốt và có kinh nghiệm công tác, có uy tín thì không được xem xét bố trí đảm nhiệm các công việc đó. Tình trạng này đã hình thành “cơ quan”, “chi bộ” mang tính chất gia đình như ở Vụ PMU18 trước đây và một số vụ việc tiêu cực khác. Có cán bộ lãnh đạo khi sắp hết nhiệm kỳ, hết thời hạn làm lãnh đạo quản lý đã ban hành những quyết định bổ nhiệm, đề bạt, nâng lương, thay đổi vị trí công tác tốt hơn cho cán bộ thuộc diện “thân tín”, cho người thân trong gia đình mình không đúng chế độ, tiêu chuẩn, điều kiện.
Tình trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Về nguyên nhân khách quan cho thấy, một số quy định của Đảng, Nhà nước ban hành nhưng chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, nên bị một số cán bộ lãnh đạo, quản lý hoặc cán bộ làm công tác tham mưu về tổ chức, cán bộ lợi dụng để tham mưu, “lách luật” ban hành những quy định có lợi cho lợi ích của cán bộ lãnh đạo hoặc người thân của họ hoặc cho chính cán bộ làm công tác tham mưu về công tác cán bộ. Về nguyên nhân chủ quan cho thấy, một số cán bộ tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ hoặc cán bộ lãnh đạo dù nhận thức đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng về công tác cán bộ nhưng vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm đã cố tình không thực hiện đúng, đã chỉ đạo hoặc chủ động tham mưu ban hành những chủ trương, chính sách về công tác cán bộ ở cấp mình nhằm vụ lợi cho bản thân, người thân hoặc “cánh hẩu” của mình; mà không vì lợi ích chung của cơ quan, tổ chức, của toàn Đảng về công tác cán bộ. Một số cán bộ lãnh đạo không chấp hành nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, dẫn đến vi phạm về công tác này vì lợi ích cục bộ, hoặc lợi dụng cơ chế tập thể để hợp pháp hóa lợi ích cục bộ của một số ít người, “cánh hẩu” của mình hoặc người thân của mình trong công tác bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử cán bộ.

Dien

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN KHÔNG LỖI THỜI


Đó là cơ sở để thấy rằng, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và một số nước không có nghĩa quan điểm của học thuyết Mác - Lê-nin về CNXH là sai lầm và lỗi thời, mà ngược lại, sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng chủ nghĩa tư bản (CNTB) đang thắng thế.
Thực tế chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thách thức sinh tử. Mâu thuẫn lợi ích - căn bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản, đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh ngỡ là rất bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh là dấu hiệu đầu tiên và tất yếu có nguồn gốc từ các mâu thuẫn trong lòng CNTB, khi châu Âu không còn một đối trọng là khối các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Khi không phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài, các mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ lại hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực tư bản chủ nghĩa. Rồi nữa, những cuộc khủng bố hiện diện ngay trung tâm châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn trong chế độ tư bản. Vụ khủng bố ở Nice (Ni-xơ) dịp Quốc khánh CH Pháp ngày 14-7, vụ khủng bố bằng phương thức tương tự ở Berlin (Béc-lin) (Đức) hôm 18-12-2016 vừa qua không chỉ báo hiệu nguy cơ lớn về an ninh ở châu Âu, mà còn cho thấy hệ quả của chính sách sai lầm, vụ lợi mà CNTB thể hiện qua hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông.
Không thể phủ nhận thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã đạt nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học và công nghệ, kéo theo các cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó là cách nhìn phiến diện, không thấy đằng sau, phía trước sự phát triển ấy là gì. Trước hết phải thấy rằng, CNTB đã có nhiều thế kỷ phát triển, và bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong máu và nước mắt của nhân loại cần lao trên các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm” (Tại sao Mác đúng?, NXB Chính trị - Hành chính, H.2012, tr.40) đó là lời của T. Eagleton (I-le-tơn) - học giả người Anh. Lật lại các trang lịch sử của nó là sẽ thấy những gì mà chế độ tư bản đã đối xử với đồng loại của mình. Cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria viết rằng, vì chế độ thực dân xâm lược mà cuối thế kỷ 19, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Bra-xin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán, dịch bệnh. Và ngay tại các nước tư bản giàu có hiện nay, ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp?
Là người Việt Nam, sao có thể quên nỗi thống khổ của nhân dân trong đêm trường nô lệ dưới ách chủ nghĩa thực dân? Thực dân bóc lột cha ông chúng ta đến tận xương tủy. Bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, bến tàu, cánh đồng, đồn điền… Các cuộc khởi nghĩa từ Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, đến phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh,... đã bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. “Địa ngục trần gian” ở Côn Đảo, Phú Quốc,... các vụ tàn sát dã man ở Thái Bình (Bình Định), Bình Hòa (Quảng Ngãi), Mỹ Lai (Quảng Ngãi),... các vụ ném bom ở Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),… vẫn còn nguyên trong ký ức dân tộc và các trang lịch sử đau thương ấy đủ giúp chúng ta và con cháu chúng ta hiểu vì sao cần phải xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vậy mà vẫn có người bước ra khỏi biên giới là dành lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa. Chẳng lẽ họ không biết, hoặc họ cố tình không biết, các thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng, trong đó có sức lao động và của cải bóc lột từ các nước thuộc địa?
Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc khó khăn, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn cùng các điều kiện không thể thiếu khác. Theo V.I. Lê-nin, sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân, nhân dân lao động xây dựng xã hội mới “có một nhiệm vụ căn bản khác được để lên hàng đầu, đó là: thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.228-229). Cũng theo V.I. Lê-nin, nâng cao năng suất lao động là nhiệm vụ nặng nề, cần nhiều thời gian. Người so sánh đại thể rằng, chỉ cần một vài ngày có thể giành được chính quyền, vài tuần có thể dẹp tan sự phản kháng quân sự của giai cấp bóc lột, nhưng “Vô luận thế nào… cũng phải mất nhiều năm mới giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.229).
Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước theo con đường XHCN sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn 30 năm; sau đó là chiến tranh biên giới phía tây nam, chiến tranh biên giới phía bắc. Chúng ta xây dựng đất nước hầu như từ con số “0”, hậu quả chiến tranh là vô cùng nặng nề với hàng triệu thương binh, bệnh binh, người già và trẻ em không nơi nương tựa; đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn. Vì thế, những gì có được hôm nay là rất đáng trân trọng và tự hào, mặc dù chưa được như mong đợi. Đương nhiên, không thể so sánh với các nước đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến nỗi thống khổ, sự hy sinh của người lao động ở thuộc địa và chính quốc. Hơn nữa, xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ không phải là dễ dàng, không thể trong ngày một, ngày hai, bất chấp quy luật, đốt cháy giai đoạn. Như vậy, chỉ nhìn bề ngoài để so sánh rồi cho rằng CNTB ưu việt là không khách quan, không có cái nhìn lịch sử, cụ thể. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết những thành công và các đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Chúng ta không hề giấu giếm sai lầm, hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH. Từ các bài học rút ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, chúng ta liên tục nhìn thẳng vào sự thật để nhận thức, đánh giá, rút ra bài học nhằm điều chỉnh chiến lược và sách lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là cơ sở để Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp… Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi… Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm…” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, H.2016, tr.60-61). Đảng cũng thẳng thắn thừa nhận tình trạng nêu trên có các nguyên nhân khách quan, song “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền…
Sai lầm, khuyết điểm, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước theo một mô hình chưa có tiền lệ là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh khốc liệt kéo dài. Khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không chỉ từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà chủ yếu là ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không được hỗ trợ như của các nước XHCN như trước đây, lại phải đối phó với sự o ép (như thời kỳ cấm vận chẳng hạn), rồi sự chống phá của các thế lực xấu, thù địch... nhưng chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người 80 USD đã tăng đến mức hơn 2.100 USD, đời sống nhân dân được cải thiện một bước cơ bản. Những thành tựu đó là không thể phủ nhận và đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để đạt những thành tựu to lớn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có các bước đi dũng cảm về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một nhà nước xây dựng theo mô hình chuyên chính vô sản, chúng ta chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, quan hệ với các nước XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có hai đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực. Thực tế đó cho thấy, không thể có lý gì để cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp, định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể coi học thuyết Mác - Lê-nin đã có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm lại, những người phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin thể hiện sự lầm lạc của họ ngay từ cơ sở lý luận - thực tiễn mà họ dựa vào. Hoặc là họ hiểu lầm về tính chất của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hoặc là dù rất biết song họ vẫn cố tình xuyên tạc vì mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam bằng một lý thuyết khác, một mô hình xã hội khác không vì lợi ích của nhân dân, không vì lợi ích của dân tộc. Nghiên cứu chỉ ra bản chất các luận điểm sai lầm, luận điệu xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ để bảo vệ tính khoa học, nhân văn của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn là cảnh báo để chúng ta nâng cao nhận thức của mình, tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể, tránh các căn bệnh bảo thủ, định kiến khi vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong xây dựng đường lối và hoạch định chính sách phát triển đất nước.
Hanh ha



DÂN SỰ HÓA” – ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI


                                                                 
Hiện nay, trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” đang xuất hiện những tình tiết mới, rất nguy hiểm và thâm độc. Đó là âm mưu đòi “dân sự hóa” quân đội của các thế lực thù địch.
Một là, chúng ra sức tuyên truyền, cổ xúy cho luận điểm “Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, vì vậy, quân đội phải do nhân dân chỉ huy, quân đội chỉ cần trung thành và bảo vệ lợi ích của nhân dân là đủ. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, xảo quyệt, vì thoạt nghe thì rất có lý, nhưng lại nguy hiểm ở chỗ đã tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Vì vậy, quân đội trung thành với Đảng, Nhà nước, bảo vệ Đảng, Nhà nước cũng chính là bảo vệ con đường đi lên xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân vậy. 
Hai là, chúng đòi đưa ra Quốc hội bàn bạc công khai các vấn đề về quốc phòng, quân sự; để nhân dân quyết định các vấn đề quốc phòng, quân sự thông qua đại diện của mình là các đại biểu Quốc hội. Đây là một luận điệu vô cùng lố bịch. Ai cũng biết, quốc phòng, quân sự là công cuộc phòng thủ của đất nước, là việc cơ mật, liên quan đến sự tồn vong của một quốc gia, dân tộc, cần phải giữ bí mật và phải được những người có am hiểu về công tác quân sự, quốc phòng bàn bạc, quyết định. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội thì không thể cái gì của quân đội cũng phải công khai trước Quốc hội hay với toàn dân.
Ba là, chúng kêu gọi quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng cho rằng nếu quân đội tham gia hoạt động sản xuất kinh tế sẽ nảy sinh tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi và làm suy yếu sức mạnh quân đội. Hoặc cho rằng, nay đất nước đã phát triển, quân đội không phải làm kinh tế và ưu tiên tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu như quân đội các nước tư bản. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, phủ nhận chức năng, vai trò của quân đội từ bản chất. Quân đội thực hiện chức năng lao động sản xuất, tham gia phát triển kinh tế chính là kế thừa kế sách giữ nước của cha ông. Vì vậy, quân đội tham gia phát triển kinh tế là đúng pháp luật, cũng là phù hợp với chủ trương của Đảng.
Bốn là, chúng kêu gọi quân đội bàn giao đất quốc phòng cho các địa phương quản lý, phát triển kinh tế. Tất nhiên, tài nguyên đất là thuộc về sở hữu tập thể, Nhà nước giao cho quân đội quản lý, sử dụng nhưng khi Nhà nước cần quân đội sẵn sàng bàn giao lại. Nhưng lợi dụng việc quản lý đất đai chưa thống nhất, còn buông lỏng, chưa chặt chẽ và đúng pháp luật, những sơ hở trong các phát ngôn các thế lực thù địch tán phát, bình luận trái chiều, kích động nhân dân khiếu kiện, làm phức tạp tình hình và có nguy cơ mâu thuẫn, thậm chí đối đầu giữa quân đội với nhân dân Đây cũng là âm mưu rất nguy hiểm của các thế lực thù địch và kẻ cơ hội, điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến các hoạt động quân sự khi có tình huống khẩn cấp về quốc phòng - an ninh, nhiều nơi không còn vị trí bố trí các trận địa phòng không, triển khai lực lượng tác chiến... rất nguy hiểm.
Như vậy, với mục tiêu “dân sự hóa” quân đội rất tinh vi và thâm độc, các thế lực thù địch muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm sai trái phản động nêu trên có không ít người, kể cả cán bộ nguyên là lãnh đạo cấp cao mắc mưu thủ đoạn thâm độc này. Vì thế các cấp, các ngành càng phải đề cao cảnh giác, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và triển khai các giải pháp đồng bộ, toàn diện để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm này của các thế lực thù địch.
minh van

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2018

Vạch trần âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để tuyên truyền chống phá cách mạng nước ta



Tham nhũng là vấn đề không của riêng đất nước, quốc gia nào. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng triệt để vấn đề tham nhũng ở nước ta để xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Trên những trang mạng, các phần tử xấu có tư tưởng thù địch đã rêu rao những nội dung đại loại như: “đang có cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng”, “cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”...
Các đối tượng lợi dụng triệt để thông tin một vài vụ án tham nhũng có liên quan đến cán bộ, đảng viên đã bị đưa ra ánh sáng pháp luật nhằm suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm rồi cho rằng tham nhũng là bản chất, là hệ quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, của cơ chế lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Nếu ai đã từng đọc những thông tin nhảm nhí, xuyên tạc thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay trên các trang mạng xã hội do các thế lực thù địch ngụy tạo ra, sẽ không khó để nhận ra những âm mưu thâm hiểm đi kèm. Đó chính là sự xúi giục, âm mưu kích động nhân dân ta đứng lên đòi thay đổi cương lĩnh, thể chế chính trị, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chuyển xã hội ta sang một xã hội “đa nguyên, đa đảng”.
Tiếp tục các nghị quyết của những khóa trước, việc chúng ta đang tích cực triển khai và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó lưu ý tới công tác phòng, chống tham nhũng.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, đã có nhiều vụ án về tham nhũng nghiêm trọng bị cơ quan chức năng điều tra, xử lý. Cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng trong những năm qua luôn được Đảng, Nhà nước, Chính phủ ta coi trọng và đã cho những kết quả khả quan; góp phần củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp lãnh đạo của Đảng.
Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã đúc kết và “vạch mặt” những biểu hiện cũng như đề ra các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) cũng đã khẳng định: “Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực” là một trong 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Như vậy, có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta không phủ nhận tệ tham nhũng đã và đang tồn tại gây ra nhiều hậu quả cho xã hội. Và để ngăn chặn tệ tham nhũng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai nhiều biện pháp quyết liệt đấu tranh, đẩy lùi tệ tham nhũng, củng cố niềm tin ở nhân dân, không để các thế lực thù địch lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu, chiến lược “Diễn biến hòa bình”.
du ha

Không thể phủ nhận vai trò của quân đội đấu tranh trên không gian mạng



Thực hiện Quyết định số 1198/QĐ-TTg ngày 15/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ, chiều ngày 08/01/2018, tại Hà Nội, bộ Quốc phòng đã tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Bộ tư lệnh Tác chiến không gian mạng. Trong thời gian vừa qua, trên một số trang mạng xã hội, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại đẩy mạnh hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Trong các bài viết chúng rêu rao rằng việc quân đội ta tham gia bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là việc làm “vi hiến”. Quân đội chỉ có thể chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân chứ không có chức năng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Thậm chí chúng còn xuyên tạc rằng: “Sự ra đời của Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng chủ yếu nhằm đàn áp tự do ngôn luận, tôn giáo, đàn áp nhân dân”, “bóp cổ internet”...
Trước hết, chúng ta phải khẳng định quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, thiển cận, đi ngược lại với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta. Trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nhất là Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta đã đề cao trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhận định nguy cơ xảy ra chiến tranh mạng, mất an ninh thông tin ngày càng tăng và đặt ra mục tiêu phải chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả chiến tranh mạng. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội không chỉ bảo vệ toàn vẹn vùng đất, vùng trời, vùng biên giới, biển đảo của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh tư tưởng, an ninh văn hóa và bảo vệ cả trên không gian mạng.
Trên thực tế, thời gian gần đây, một số tin tặc, tội phạm công nghệ cao đã liên tiếp tấn công hệ thống mạng của các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Tập đoàn Dầu khí quốc gia làm ngưng trệ hoạt động và xóa thông tin dữ liệu, không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế mà còn trực tiếp đe dọa, làm tổn hại uy tín, vị thế, lợi ích, chủ quyền, an ninh, an toàn của đất nước, đời sống nhân dân. Mặt khác, dưới các chiêu bài “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã xúc tiến thành lập các nhóm, hội như “Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Nhóm công dân tự do”... thông qua internet, mạng xã hội, thu thập tin tức nội bộ, bí mật Nhà nước cung cấp cho lực lượng bên ngoài nhằm xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước.
Trước tình hình đó, đấu tranh với thông tin sai trái, xấu độc trên internet, mạng xã hội là việc làm cần thiết, là trách nhiệm của cả cộng đồng, trong đó có cán bộ, chiến sĩ quân đội. Việc thành lập Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng là hoàn toàn phù hợp với quy luật, xu thế khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
 Đức Dương 

Dân chủ của Việt Nam "cao hơn gấp vạn lần so với dân chủ tư sản".






     Không hiểu sao Nguyễn Văn Song lại hỏi một câu hỏi ngớ ngẩn về con đường dân chủ cho Việt Nam khi điều đó đã hiển nhiên là một sự thật. Trong Tuyên ngônHYPERLINK "https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B4n_%C4%91%E1%BB%99c_l%E1%BA%ADp_(Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)" HYPERLINK "https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn_ng%C3%B4n_%C4%91%E1%BB%99c_l%E1%BA%ADp_(Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)"độc lập 1945 do Hồ Chí Minh viết, đã khẳng định quyền tự do dân chủ của tất cả người dân Việt Nam. Trong Hiến pháp 1946, Lời nói đầu khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của bản Hiến pháp này: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Như vậy, ngay từ khi thành lập nước, tự do dân chủ đã trở thành ưu tiên hàng đầu, là mục tiêu phấn đấu.
     Nền dân chủ ở Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là trọng tâm. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ khác, nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong khuôn khổ pháp luật. Thông qua thực thi pháp luật, nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
     Dân chủ ở nước ta được thể hiện, mở rộng và có cơ chế để đảm bảo thực hiện trên nhiều lĩnh vực: về kinh tế, chính trị, tôn giáo. Ngoài ra, dân chủ còn thể hiện ở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do đi lại, tự do cư trú…
Những minh chứng trên càng khẳng định rằng Nguyễn Văn Song chẳng hiểu gì về nên dân chủ ở Việt Nam.
Thang