|
Đó là cơ sở để thấy rằng, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội
(CNXH) ở Liên Xô và một số nước không có nghĩa quan điểm của học thuyết Mác -
Lê-nin về CNXH là sai lầm và lỗi thời, mà ngược lại, sẽ là ảo tưởng nếu cho
rằng chủ nghĩa tư bản (CNTB) đang thắng thế.
|
Thực tế chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thách
thức sinh tử. Mâu thuẫn lợi ích - căn bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản,
đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh ngỡ là rất bền
vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh là dấu hiệu đầu tiên và tất yếu
có nguồn gốc từ các mâu thuẫn trong lòng CNTB, khi châu Âu không còn một đối
trọng là khối các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Khi không phải đối mặt với
nguy cơ từ bên ngoài, các mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ lại
hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực tư bản chủ
nghĩa. Rồi nữa, những cuộc khủng bố hiện diện ngay trung tâm châu Âu, đe dọa
không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn trong chế độ tư bản. Vụ khủng
bố ở Nice (Ni-xơ) dịp Quốc khánh CH Pháp ngày 14-7, vụ khủng bố bằng phương
thức tương tự ở Berlin (Béc-lin) (Đức) hôm 18-12-2016 vừa qua không chỉ báo
hiệu nguy cơ lớn về an ninh ở châu Âu, mà còn cho thấy hệ quả của chính sách
sai lầm, vụ lợi mà CNTB thể hiện qua hành xử với các nước nghèo, các quốc gia
Bắc Phi và Trung Đông.
Không thể phủ nhận thực tế là các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển đã đạt nhiều thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học và công nghệ,
kéo theo các cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó là
cách nhìn phiến diện, không thấy đằng sau, phía trước sự phát triển ấy là gì.
Trước hết phải thấy rằng, CNTB đã có nhiều thế kỷ phát triển, và bánh xe vận
hành của nó đã lăn đi trong máu và nước mắt của nhân loại cần lao trên các
lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt
chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm” (Tại sao Mác đúng?, NXB
Chính trị - Hành chính, H.2012, tr.40) đó là lời của T. Eagleton
(I-le-tơn) - học giả người Anh. Lật lại các trang lịch sử của nó là sẽ thấy
những gì mà chế độ tư bản đã đối xử với đồng loại của mình. Cuốn sách Sự tàn
sát khủng khiếp cuối thời Victoria viết rằng, vì chế độ thực dân xâm lược mà
cuối thế kỷ 19, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Bra-xin,
Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán, dịch bệnh. Và
ngay tại các nước tư bản giàu có hiện nay, ai dám chắc mọi người dân đều có
cuộc sống tốt đẹp?
Là người Việt Nam, sao có thể quên nỗi thống khổ của nhân dân
trong đêm trường nô lệ dưới ách chủ nghĩa thực dân? Thực dân bóc lột cha ông
chúng ta đến tận xương tủy. Bao nhiêu người Việt Nam đã chết trong xưởng máy,
hầm lò, trên các cung đường, bến tàu, cánh đồng, đồn điền… Các cuộc khởi
nghĩa từ Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, đến phong trào
Xô viết Nghệ - Tĩnh,... đã bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói
năm 1945. “Địa ngục trần gian” ở Côn Đảo, Phú Quốc,... các vụ tàn sát dã man
ở Thái Bình (Bình Định), Bình Hòa (Quảng Ngãi), Mỹ Lai (Quảng Ngãi),... các
vụ ném bom ở Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội),… vẫn còn nguyên trong
ký ức dân tộc và các trang lịch sử đau thương ấy đủ giúp chúng ta và con cháu
chúng ta hiểu vì sao cần phải xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vậy mà vẫn có người bước ra khỏi biên
giới là dành lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố
hào hoa. Chẳng lẽ họ không biết, hoặc họ cố tình không biết, các thành phố đó
đã trải qua mấy trăm năm xây dựng, trong đó có sức lao động và của cải bóc
lột từ các nước thuộc địa?
Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc khó khăn, mang tính
khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính
trị đúng đắn cùng các điều kiện không thể thiếu khác. Theo V.I. Lê-nin, sau
khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân, nhân dân lao động xây dựng xã
hội mới “có một nhiệm vụ căn bản khác được để lên hàng đầu, đó là: thiết lập
một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao
động và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ
cao hơn” (V.I. Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978,
tr.228-229). Cũng theo V.I. Lê-nin, nâng cao năng suất lao động là nhiệm
vụ nặng nề, cần nhiều thời gian. Người so sánh đại thể rằng, chỉ cần một vài
ngày có thể giành được chính quyền, vài tuần có thể dẹp tan sự phản kháng
quân sự của giai cấp bóc lột, nhưng “Vô luận thế nào… cũng phải mất nhiều năm
mới giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động” (V.I.
Lê-nin, Toàn tập, Tập 36, NXB Tiến bộ, M.1978, tr.229).
Ở Việt Nam, chúng ta xây dựng đất nước theo con đường XHCN sau
một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài hơn 30 năm; sau đó là chiến tranh biên
giới phía tây nam, chiến tranh biên giới phía bắc. Chúng ta xây dựng đất nước
hầu như từ con số “0”, hậu quả chiến tranh là vô cùng nặng nề với hàng triệu
thương binh, bệnh binh, người già và trẻ em không nơi nương tựa; đồng ruộng
đầy bom, đạn, mìn. Vì thế, những gì có được hôm nay là rất đáng trân trọng và
tự hào, mặc dù chưa được như mong đợi. Đương nhiên, không thể so sánh với các
nước đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến nỗi thống khổ,
sự hy sinh của người lao động ở thuộc địa và chính quốc. Hơn nữa, xây dựng
một xã hội mới chưa từng có tiền lệ không phải là dễ dàng, không thể trong
ngày một, ngày hai, bất chấp quy luật, đốt cháy giai đoạn. Như vậy, chỉ nhìn
bề ngoài để so sánh rồi cho rằng CNTB ưu việt là không khách quan, không có
cái nhìn lịch sử, cụ thể. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng
cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất sự giàu có của
các nước tư bản phát triển, mới thấy hết những thành công và các đóng góp to
lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Chúng ta không hề giấu giếm sai lầm, hạn chế trong quá trình
xây dựng CNXH. Từ các bài học rút ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đến nay, chúng ta liên tục nhìn thẳng vào sự thật để nhận thức, đánh giá, rút
ra bài học nhằm điều chỉnh chiến lược và sách lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đó là cơ sở để Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng
trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất,
chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp… Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy
lùi… Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được
phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm…” (Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia,
H.2016, tr.60-61). Đảng cũng thẳng thắn thừa nhận tình trạng nêu
trên có các nguyên nhân khách quan, song “trực tiếp và quyết định nhất là
nguyên nhân chủ quan”. Đó là hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của
các cấp ủy, chính quyền…
Sai lầm, khuyết điểm, hạn chế trong quá trình xây dựng đất
nước theo một mô hình chưa có tiền lệ là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là
công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian,
nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta xây dựng CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh khốc liệt kéo dài.
Khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không chỉ từ sự thiếu thốn về
của cải, vật chất mà chủ yếu là ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của
nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không được hỗ trợ như
của các nước XHCN như trước đây, lại phải đối phó với sự o ép (như thời kỳ
cấm vận chẳng hạn), rồi sự chống phá của các thế lực xấu, thù địch... nhưng
chúng ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc
đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người 80 USD đã tăng đến mức hơn 2.100 USD, đời
sống nhân dân được cải thiện một bước cơ bản. Những thành tựu đó là không thể
phủ nhận và đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều
học giả phương Tây thừa nhận.
Để đạt những thành tựu to lớn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có
các bước đi dũng cảm về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã
hội. Từ nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã
chuyển sang xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển
sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một nhà nước xây dựng theo mô
hình chuyên chính vô sản, chúng ta chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN.
Từ
chỗ bị bao vây cấm vận, quan hệ với các nước XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở
cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng
lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên hợp quốc, trong đó có hai đối tác
toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác
chiến lược theo từng lĩnh vực. Thực tế đó cho thấy, không thể có lý gì để cho
rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp, định kiến mà không đổi mới
nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể
coi học thuyết Mác - Lê-nin đã có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm
của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm lại, những người phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin thể hiện
sự lầm lạc của họ ngay từ cơ sở lý luận - thực tiễn mà họ dựa vào. Hoặc là họ
hiểu lầm về tính chất của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hoặc là dù rất biết song họ
vẫn cố tình xuyên tạc vì mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng,
đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam bằng một lý thuyết khác, một mô
hình xã hội khác không vì lợi ích của nhân dân, không vì lợi ích của dân tộc.
Nghiên cứu chỉ ra bản chất các luận điểm sai lầm, luận điệu xuyên tạc Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin không chỉ để bảo vệ tính khoa học, nhân văn của Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, mà còn là cảnh báo để chúng ta nâng cao nhận thức của mình, tìm
hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan
điểm lịch sử - cụ thể, tránh các căn bệnh bảo thủ, định kiến khi vận dụng Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin trong xây dựng đường lối và hoạch định chính sách phát
triển đất nước.
Quan tam
|
Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN KHÔNG LỖI THỜI
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét