Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2023

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO MỌI HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẢNG TA

Trong tuần trên một số đài, báo nước ngoài, một số trang mạng xã hội và bloger; các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, chống đối cực đoan đã tiến hành tán phát nhiều tin, bài có nội dung xuyên tạc tình hình nội bộ Đảng, Nhà nước, Quân đội vu cáo, bôi nhọ chế độ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Điển hình như: Trên trang blog Dân làm báo, ngày 06/4/2021 đối tượng Phạm Trần tán phát bài “Nguy cơ chồng chất muôn năm”, nội dung xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương; bôi nhọ, nói xấu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền xuyên tạc cho rằng lực lượng dư luận viên, đặc biệt là lực lượng 47 trong Quân đội hoạt động “không hiệu quả”, dẫn tới Quân đội “bị thua trắng” trên mặt trận tuyên truyền bảo vệ Đảng đồng thời đưa ra yêu cầu xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

          Khẳng định, những bài phát tán của các đối tượng trên là hoàn toàn sai trái, phản động, xuyên tạc, bịa đặt nhằm gây hoang mang dư luận, làm sói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền tẳng tư tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Tiếp tục khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đấu tranh với các thủ đoạn lợi dụng những vấn đề còn bất cập để bôi đen, phủ nhận thành tựu, xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi “đổi mới” theo hướng đa nguyên đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước.

            Vì vậy, để đấu tranh hiệu quả với thủ đoạn, chiêu trò thâm hiểm trên, đã đến lúc phải thực hiện kiên quyết, triệt để các quy định của pháp luật về quản lý internet, mạng xã hội, xử lý các hành vi vu khống, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm người khác,chống phá Đảng và Nhà nước ta. Phải tỉnh táo, cảnh giác, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn./.


Thứ Năm, 27 tháng 4, 2023

PHỦ NHẬN CHIẾN THẮNG 30/4 LÀ THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC, XUYÊN TẠC LỊCH SỬ


 Cứ vào dịp đất nước ta diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại, các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, hòng hạ thấp ý nghĩa lịch sử của sự kiện đó. Những ngày tháng 4 này, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang hướng về kỷ niệm 45 năm Chiến thắng 30/4, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước thì chiêu trò này lại tái diễn. Vẫn “bình cũ, rượu mới”, thủ đoạn mà chúng sử dụng là xuyên tạc lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, hòng phủ nhận công lao to lớn, sự hy sinh vì chính nghĩa của dân tộc ta.

Trên một số Website, blog như dân làm báo xuất hiện một số bài viết của các phần tử phản động, cố tình xuyên tạc rằng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là cuộc nội chiến giữa một bên là chính quyền Sài Gòn, được Mỹ và một số nước phương Tây hậu thuẫn và một bên là chính quyền Hà Nội, được Liên Xô cũ, Trung Quốc và nhiều nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ. Quân dân miền Bắc cầm súng sát hại đồng bào ở miền Nam.
 Cần khẳng định rằng, đây là luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử hết sức lố bịch của những kẻ vô ơn, bội nghĩa với dã tâm xấu xa. Ngược dòng lịch sử, năm 1954, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết với mưu đồ biến Việt Nam thành thuộc địa, làm bàn đạp chiến lược ở Đông Nam Á, Mỹ đã nhảy vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách độc tài và tàn bạo đối với Nhân dân miền Nam như: Ra Luật 10/59, lập ấp chiến lược với phương châm “giết sạch, đốt sạch, phá sạch”, đã gây ra tội ác tày trời đối với Nhân dân miền Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Chỉ trong năm 1959, toàn miền Nam có 466.000 người bị chúng bắt, 400.000 người bị tù đày và 68.000 người bị giết hại. Đồng thời, chúng tiến hành một cuộc chiến tranh hủy diệt hết sức tàn bạo, biến Việt Nam thành chiến trường đẫm máu và hứng chịu một lượng bom đạn lớn chưa từng thấy trên thế giới. Số lượng bom đạn Mỹ rải xuống Việt Nam tới trên 7,8 triệu tấn, gấp 3 lần sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Mỹ cũng rải xuống miền Nam Việt Nam khoảng 85 triệu lít chất độc hóa học có chứa đi-ô-xin. Làm một phần lớn diện tích rừng của Việt Nam bị thiêu rụi và di chứng của chất độc này đến nay vẫn khiến hàng vạn người dân Việt Nam tiếp tục phải gánh chịu.
 Chiến thắng 30/4/1975 đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ ở miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến cứu nước lâu dài, khó khăn và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của Nhân dân ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12/1976 đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
 Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng từng đánh giá: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái mốc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Chiến thắng Điện Biên Phủ và Chiến thắng mùa Xuân 1975 mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kỳ tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX”.
 Trả lời báo chí Mỹ về chiến tranh Việt Nam, cựu Tổng thống Mỹ G.Pho cũng phải thừa nhận thất bại, đồng thời bày tỏ sự cảm phục trước tinh thần dũng cảm, chiến đấu kiên cường của Nhân dân Việt Nam. Hay trong cuốn sách “Tường trình một người lính”, Tướng C.Oét-mô-lên, Tổng chỉ huy Quân đội Viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã thừa nhận: “Nhảy vào Việt Nam là một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta”.
Như vậy với Chiến thắng lịch sử mùa Xuân 1975 đã tạo bàn đạp cho cả dân tộc Việt Nam có thêm bản lĩnh, niềm tin để vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. 45 năm đã qua, nhất là hơn 30 năm đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, đất nước gặp nhiều khó khăn, thử thách, đặc biệt là đại dịch Covid-19. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá nước ta trên nhiều mặt, nhưng với tinh thần Chiến thắng 30/4, truyền thống đoàn kết, bằng quyết tâm, nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, đất nước vẫn vững vàng trước đại dịch Covid-19, được quốc tế đánh giá là “ngọn hải đăng” trong đại địch. Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, đời sống Nhân dân ngày càng được cải thiện… Hơn bao giờ hết, chúng ta phải giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển toàn diện đất nước, góp phần nang cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cuộc đấu tranh anh dũng của quân và dân hai miền Nam, Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng, là cuộc đấu tranh chính nghĩa để thực hiện khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mang lại tự do, độc lập cho toàn thể Nhân dân ta đã được sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới, trong đó có Nhân dân Mỹ. Đây hoàn toàn không phải là “dụ dỗ dân miền Bắc cầm súng sát hại đồng bào miền Nam” như sự xuyên tạc, bịa đặt của những kẻ đội lốt “dân chủ, nhân quyền”.
 Là công dân Việt Nam - một dân tộc Anh hùng, bất khuất, yêu hòa bình, chắc chắn không ai có thể chấp nhận những luận điệu bôi đen lịch sử về Chiến thắng vĩ đại 30/4/1975, mà các thế lực thù địch xuyên tạc. Những luận điệu đó hoàn toàn đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc và nguyện vọng của Nhân dân. Vì vậy, mỗi chúng ta phải nêu cao tinh thần cảnh giác, xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch./.
Anh Đức 


30/4/1975 - MỘT NGÀY ĐÁNG NHỚ VÀ TỰ HÀO!



Sau các chiến dịch và các đợt chiến đấu tạo thế (bắt đầu từ ngày 9/4 đến ngày 26/4), ta đã bao vây áp sát Sài Gòn trên năm hướng: hướng Bắc là Quân đoàn 1, Tây Bắc là Quân đoàn 3; Đông là Quân đoàn 4 và 2; Tây Nam là Đoàn 232; Nam là lực lượng chủ lực Quân khu 8; một số đơn vị đặc công và biệt động đã đứng được ở ven và nội đô. Đúng 17 giờ ngày 26/4 chiến dịch bắt đầu, trước tiên ở hướng Đông và Đông Nam. Từ ngày 26 đến ngày 28 ta chọc thủng tuyến phòng thủ vòng ngoài, đập tan sự chống cự của các sư đoàn địch; chiều ngày 28, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn mất hiệu lực chỉ huy, địch rối loạn về chiến lược. Ngày 29 ta tổng công kích trên toàn mặt trận, tiêu diệt các lực lượng địch ngăn chặn, phản kích, chiếm tuyến ven đô.
Sáng ngày 30/4/1975, ta thọc sâu vào nội đô, đánh chiếm các mục tiêu theo kế hoạch; 11giờ 30 phút chiếm và cắm cờ trên Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các của Ngụy quyền VNCH, Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cùng với đòn tiến công quân sự, nhân dân nội, ngoại thành Sài Gòn đã nổi dậy giành chính quyền ở 107 điểm. Nắm thời cơ chiến lược, ngày 1/5 ở đồng bằng sông Cửu Long, các quân khu 8 và 9 đã đồng loạt tiến công và nổi dậy tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng còn lại cuối cùng của ngụy quân, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là sự khẳng định hùng hồn về sự trưởng thành vượt bậc của nghệ thuật quân sự Việt Nam, trong chiến tranh nhân dân và chiến tranh tổng lực. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tập trung cao độ tâm sức và trí tuệ cho việc nắm bắt và phân tích tình hình, đề ra những chủ trương, quyết sách chiến lược tối ưu và đúng đắn nhất, tiến tới giành thắng lợi toàn diện cho đất nước...
Như một bức tranh hoành tráng, xe pháo và tàu thuyền đủ loại, bộ đội, du kích, văn nghệ sỹ, dân công và thanh niên hỏa tuyến... theo những ngả đường tấp nập cả dân tộc từ Bắc chí Nam đang hành quân, hậu phương đang dốc toàn lực ra tiền tuyến, nửa miền Nam vừa được giải phóng cũng góp sức vào chuẩn bị giải phóng nửa còn lại đang tạm thời trong vòng khổ đau.
Có những người lính chỉ còn vài khắc nữa thôi sẽ được thấy lá cờ Giải phóng bay trên nóc Dinh Độc Lập. Máu và nước mắt đã đổ quá nhiều cho Ngày Độc lập – Một ngày mà cả dân tộc chờ đợi cả 20 năm. Ngày 30/4 – Ngày Giải phóng – Ngày Tết Thống nhất của dân tộc.
 Văn Hòa



CHIẾN THẮNG 30/4 LÀ THÀNH QUẢ VĨ ĐẠI NHẤT CỦA SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC!



Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kỷ niệm 45 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trải qua 21 năm, là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt nhất.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đương đầu với tên đế quốc giàu mạnh nhất và hung bạo nhất trong phe đế quốc. Cuộc kháng chiến đã phải trải qua 5 giai đoạn: (1). Từ tháng 7-1954 đến hết năm 1960, ta tập trung đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ; (2). Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965, ta giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ; (3). Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968, Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc; (4). Từ năm 1969 đến 1973, quân và dân ta phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam-Lào-Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán; (5). Từ cuối năm 1973 đến ngày 30-4-1975 là giai đoạn thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi ký Hiệp định Paris (tháng 1-1973), mặc dù phải rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục nuôi âm mưu dùng chính quyền ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho chính quyền ngụy Sài Gòn lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5-1973, xu thế chống phá Hiệp định Paris của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7-1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam muốn giành được thắng lợi trọn vẹn vẫn là con đường bạo lực để giành chính quyền và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam-Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành được những thắng lợi cơ bản. Ta càng mạnh lên, ngụy càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ, ngày càng có nhiều tiếng nói trong chính quyền, trong nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tháng 7-1974, Trung ương Đảng chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Với những thắng lợi trên toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó có thể quay trở lại miền Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến và quyết định đẩy nhanh thực hiện kế hoạch đã đề ra.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu từ ngày 4-3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn-Gia Định kết thúc vào ngày 30-4-1975. Qua gần hai tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, thu non sông về một mối, kết thúc 21 năm cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ, lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập, tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên, khích lệ các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
Để có thắng lợi vĩ đại trên, trước hết là do sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng, nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hai là, nhân dân và các LLVT nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ. Năm là, phát huy tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước phe xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng giúp cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta những bài học kinh nghiệm quý báu. Đó là các bài học: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam; phát huy sức mạnh thời đại; vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam; chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng, nghệ thuật tạo và nắm bắt thời cơ giành những thắng lợi quyết định; đồng thời phải luôn luôn chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
Kỷ niệm 45 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là dịp để ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nhìn lại chặng đường phấn đấu, xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời nhận thức sâu sắc, đầy đủ, toàn diện hơn những giá trị, những bài học kinh nghiệm quý báu được tổng kết từ trong thực tiễn đấu tranh của dân tộc ta để tiếp thêm sức mạnh, ý chí quyết tâm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua chào mừng Đại hội Đảng các cấp, hướng tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng; 76 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nên phát huy hào khí của Ngày Chiến thắng 30-4 cũng là ngày Việt Nam chiến thắng đại dịch Covid-19, chúng ta tiếp tục phấn đấu đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH./.

 Văn Lũy


Thứ Tư, 26 tháng 4, 2023

ĐỪNG XUYÊN TẠC ĐỂ TẠO NÊN HẬN THÙ

 Một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng phát triển sau những năm dài chiến tranh là minh chứng rõ nhất cho thấy “vết thương”, vết sẹo đau thương năm xưa đã lành. 48 năm sau kể từ khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 kết thúc thắng lợi, miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, non sông liền một dải, những luận điệu xuyên tạc sự thật, kích động hận thù vẫn còn và đâu đó những tiếng kêu rên lạc lõng nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo luận điệu của các thế lực thù địch cũng vẫn còn

Hằng năm cứ Tháng 4 về, cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất là các phần tử cơ hội, phản động lại khoét sâu những ký ức của những năm nhân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng những luận điệu xuyên tạc sự thật. Trong đó có những luận điệu: nếu không phải Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng “khơi mào” thì sẽ không có cuộc “nội chiến huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt kéo dài 30 năm”; cái gọi là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chỉ là một cách “cộng sản tuyên tuyền”, nhưng kỳ thực đó là “miền Bắc xâm lược miền Nam”; cuộc chiến tranh ấy là do “miền Nam – miền Bắc do xung đột về ý thức hệ”; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hiếu chiến nên đã gây chiến tranh thôn tính miền Nam, làm cho hàng triệu người của hai miền thiệt mạng; đây là cuộc nội chiến giữa một bên là chính quyền Sài Gòn, được Mỹ và một số nước phương Tây hậu thuẫn và một bên là chính quyền Hà Nội, được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ…

Những luận điệu xuyên tạc sự thật, đậm mùi “diễn biến hòa bình” này đã khiến những người có lương tri, những người dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, thống nhất đất nước căm giận! Vì thế, cần phải khẳng định rằng:

1. Khơi mào cuộc chiến tranh này là do đế quốc Mỹ

Kỳ thực, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam không phải là “cuộc nội chiến”, cũng không phải do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng “khơi mào”, mà đó chính là cuộc chiến tranh nhân dân của những người dân Việt Nam yêu nước nhằm giải phóng miền Nam khỏi sự can thiệp, thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh nhân dân kéo dài 21 năm này chính là do mưu đồ chính trị và hành động xâm lược miền Nam Việt Nam của chính quyền Mỹ (sau đó lan rộng cả ra miền Bắc Việt Nam), chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ của dân tộc Việt Nam; càng không phải là miền Bắc hiếu chiến đã xâm lược, thôn tính miền Nam…

Những nghiên cứu chính trị thế giới cho thấy: Từ quan điểm “Việt Nam là hòn đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó”[1], cho nên “các nhà hoạch định chính sách cảnh báo rằng nếu miền Nam Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản, các nước láng giềng chắc chắn sẽ lần lượt gục ngã, lần lượt như một hàng quân cờ domino”[2]… Vì thế, Mỹ không chỉ chính thức can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương từ năm 1950; trong đó, phái bộ cố vấn viện trợ quân sự Đông Dương (MAAG) của Mỹ đã viện trợ quân sự cho Pháp từ 52 tỷ phrăng lên tới 751 tỷ phrăng năm 1954 (chiếm 73,9% chi phí chiến tranh), mà còn trực tiếp gạt Pháp ra khỏi Đông Dương, tiến hành lập chính quyền mới, tổ chức bầu cử riêng ở miền Nam Việt Nam (đầu năm 1955) bất chấp điều khoản của Hiệp định Genève ngày 20/7/1954 về việc hai miền phải thống nhất trước tháng 7/1956 bằng tổng tuyển cử “tự do và dân chủ” để lập ra cái gọi là Việt Nam Cộng hòa… với âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ.

Thực hiện mưu đồ của mình ở miền Nam Việt Nam, Mỹ đã triển khai phương thức thống trị thực dân kiểu mới, cai trị trá hình, nuôi dưỡng và dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai (từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu); với sự viện trợ ngày càng tăng: Từ năm 1955 -1961, đế quốc Mỹ đã viện trợ cho chính quyền miền Nam Việt Nam 7 tỷ USD[3]; từ năm 1962 – 1974, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa 21.336 triệu USD (bao gồm cả viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự)… Tuy nhiên, trên thực tế chính quyền tay sai ở miền Nam chỉ là những quân cờ trên bàn cờ chiến lược của đế quốc Mỹ, cho nên khi quân cờ không còn hữu dụng thì sẽ bị thay thế, vứt bỏ như Mỹ đã từng làm với Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu sau này…

Vì thế, có thể thấy rằng, khơi mào cuộc chiến tranh kéo dài 21 năm ở miền Nam Việt Nam là do âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ (từ can thiệp đến xâm lược) chứ không phải là do miền Bắc “xâm lược” miền Nam, càng không phải do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta muốn “thôn tính” miền Nam. 

2. Đừng đổ lỗi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng

Trước sự phá hoại Hiệp định Genève của đế quốc Mỹ, trước những yêu cầu đàm phán với chính quyền Ngô Đình Diệm liên tục bị từ chối và nhất là trước sự thảm sát tàn khốc những người yêu nước và đồng bào ta ở miền Nam của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, nhân dân Việt Nam yêu nước nhất quán quan điểm kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam thống nhất, giang sơn gấm vóc liền một dải bằng phương pháp đấu tranh hòa bình. Tuy nhiên, trước những thay đổi của tình hình chính trị trong nước và quốc tế, nhất là từ thực tế cách mạng miền Nam dưới chế độ Mỹ – Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Đảng (1/1959) đã vạch rõ: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam).

Đồng thời, Hội nghị nhận định: “Đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[5]. Sau đó, Đại hội III của Đảng (9/1960) đã đề ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo phù hợp điều kiện cụ thể cảu tình hình cách mạng Việt Nam để lãnh đạo, chỉ đạo đồng bào và chiến sĩ cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để vừa bảo vệ miền Bắc, vừa tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Lịch sử thế giới đương đại cho thấy, trên hành trình đấu tranh cho tương lai, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa; nhưng từ giữa năm 1972, viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc cho Việt Nam đều đã bị cắt giảm mạnh… song Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn từng bước vượt qua khó khăn, thử thách để giành thắng lợi cuối cùng bằng Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Vì rằng, cuộc chiến tranh chính nghĩa này không chỉ là động lực thu hút và tập hợp tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt thành phần, tôn giáo, đảng phái tạo thành khối đoàn kết thống nhất trong cuộc đấu tranh chung, mà còn cho thấy với tư cách là đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam – Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (thành lập từ 6/1969 cho đến cuối năm 1972) đã được 30 nước trên thế giới chính thức công nhận… Sự thật này thì không thể bẻ cong được!

Nguyên nhân, mục đích, hành trình và kết quả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến đấu chính nghĩa vì độc lập, tự do, hòa bình và thống nhất của một quốc gia có chủ quyền, nên đã thức tỉnh lương tri nhân loại tiến bộ; nên được ủng hộ, giúp đỡ… là không thể phủ nhận. Đồng thời, việc Mỹ can thiệp, gây chiến tranh, xâm lược đối với miền Nam Việt Nam và sau này cả miền Bắc Việt Nam cũng là sự thật. Vì thế, việc xuyên tạc, bôi đen hay bẻ cong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để đổ lỗi cho Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, cho miền Bắc là “xâm lược”, “thôn tính” miền Nam hay cuộc chiến tranh này là vì “Liên Xô, Trung Quốc”… đều là luận điệu phản động của các thế lực thù địch; cần phải được đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhân diện đúng để chủ động đấu tranh phản bác ./.


MƯU ĐỒ PHÍA SAU CHIÊU BÀI AN SINH XÃ HỘI

 Một trong những trọng tâm chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng và Nhà nước ta, đó là lấy “những góc khuất” trong thực hiện chủ trương an sinh xã hội làm chiêu bài kích động, gieo tư tưởng xấu độc, chia rẽ niềm tin. Hiểu thấu âm mưu, thủ đoạn của chúng, có nhận thức đúng đắn về hiệu quả thực hiện chủ trương này đang là vấn đề được dư luận quan tâm.

Điều 34, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Thấu triệt mục đích, ý nghĩa của an sinh xã hội, ngày 10-6-2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TƯ một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 (Nghị quyết 15).

Mới đây, sau cuộc họp của Bộ Chính trị cho ý kiến về Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 15, các trang web tiếng Việt ở nước ngoài đã “chĩa mũi dùi”, phủ nhận thành quả bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam. Trên VOA, người có tên Trân Văn viết bài “Chỉ mới có tượng đài, cổng chào,... là hiện đại, bao trùm, bền vững”. Bài viết phủ nhận kết quả 10 năm trong lĩnh vực này của Việt Nam và đưa ra một vài kết quả xây dựng công trình văn hóa công cộng ở nước ngoài để đối sánh. Người viết cho rằng, an sinh xã hội chỉ là một con bài ru ngủ nhân dân để các quan chức của Đảng rảnh tay, dễ dàng vơ vét.

Cũng tại thời điểm này, khi mà cơ quan điều tra của Bộ Công an công bố kết quả điều tra liên quan đến các “chuyến bay giải cứu” dịch Covid-19 và đề nghị truy tố 54 bị can có hành vi “lợi dụng chức vụ quyền hạn thực thi công vụ”, “hối lộ”, “đưa hối lộ”, “môi giới hối lộ” và “lừa đảo”… thì trang web baotiengdan.com đăng nhiều bài phân tích, bình luận với luận điệu xấu. Dù lập luận rời rạc, thiếu chứng cứ khoa học, trang web này vẫn đi đến khẳng định, cứ “thi hành công vụ” là viên chức thuộc đủ mọi cấp của tất cả các ngành thản nhiên “chặt đầu, lột da” đối tượng được họ... “phục vụ”.

Đặc biệt, khi lực lượng chức năng xử lý các trường hợp lấn chiếm vỉa hè làm nơi kinh doanh, buôn bán…, chúng đồng thanh vu cáo Việt Nam chặn đường sinh sống của dân. Hay như sau khi có hiện tượng thiếu sinh phẩm y tế và việc một số cán bộ ngành Y tế bị bắt, chúng nhanh chóng loan báo Việt Nam thất bại trong chăm sóc y tế nhân dân.

Nếu theo dõi sát hoạt động của các thế lực thù địch thì thấy, chúng thường áp dụng phương pháp phân tích thông tin, sự việc đơn lẻ rồi quy chụp, đưa ra đánh giá, kết luận, khẳng định Việt Nam đang bị “lỗi hệ thống”. Trong việc đề cập vấn đề bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam, chúng cũng dùng thủ đoạn này. Đây được xem là “món ăn” ưa thích của những kẻ bất đồng chính kiến. Trước thủ đoạn này, chúng ta phải làm gì?

Trước hết, để thấu triệt quan điểm của Đảng trong bảo đảm an sinh xã hội thì chúng ta cần hiểu rõ khái niệm. Theo các chuyên gia, an sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện, nhằm bảo đảm cho mọi công dân có được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin… đặc biệt là các đối tượng như trẻ em, người già, người bệnh, người yếu thế và người thất nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết 15, Chính phủ đã triển khai nhiều nội dung, chương trình. Trong tổng số 26 chỉ tiêu có 5 chỉ tiêu vượt và hoàn thành trước thời hạn, gồm: Nhà ở cho người có công; trợ giúp xã hội; trợ giúp xã hội cho người cao tuổi; tỷ lệ đi học đúng tuổi; bảo hiểm y tế; tiêm chủng mở rộng. Có 16 chỉ tiêu đạt mục tiêu vào năm 2020, gồm: Mức sống gia đình người có công; mức trợ cấp người có công; thất nghiệp chung; thất nghiệp thành thị; giảm nghèo chung; giảm nghèo tại các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao; thu nhập bình quân đầu người hộ nghèo; trợ giúp xã hội đột xuất; trẻ em đi học trung học cơ sở đúng tuổi; người biết chữ từ 15 tuổi; lao động qua đào tạo; tiêm chủng cho trẻ dưới 1 tuổi; phòng chống lao; phủ sóng phát thanh truyền hình; đài truyền thanh xã ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. 

Đặc biệt, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2020 có sự cải thiện trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc, từ vị trí 128/187 năm 2011 lên vị trí 117 năm 2020. Báo VietnamPlus đã dẫn lời đánh giá của bà Gulmira Asanbaeva, Quyền đại diện Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam khẳng định, việc ban hành và triển khai Nghị quyết 15 đã đánh dấu một bước đột phá lớn, tạo tiền đề cho Việt Nam tiếp cận gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế và các thông lệ tốt nhất về an sinh xã hội.

Những dẫn chứng trên khẳng định, việc các thế lực thù địch, những kẻ bất đồng chính kiến và thiếu thiện chí với Việt Nam, cố tình biến chính sách an sinh xã hội thành công cụ nhằm đạt mưu đồ chống phá là rõ ràng. 

Nhận thức được âm mưu của chúng, mỗi cán bộ, đảng viên và từng công dân trong xã hội cần nêu cao nhận thức, trân quý giá trị hòa bình, độc lập, tự do; tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; tự xây dựng cho mình sức đề kháng vững vàng, không mắc mưu kẻ xấu và các thế lực phản động. Các cấp ủy, chính quyền và hệ thống truyền thông cần đẩy mạnh tuyên truyền, cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin bằng nhiều hình thức khác nhau, để mọi công dân được biết và thêm tin tưởng.

V.I.Lênin từng khẳng định: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”. Giá trị tự bảo vệ ấy phải được dựa trên chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, nhằm bảo đảm quyền sống, mức sống, quyền làm chủ của công dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của Đảng ta đang xây dựng. Cần phải xây dựng niềm tin chính trị vững chắc vào mục tiêu của Đảng, vào các chương trình của Nhà nước để có thái độ đúng đắn, không mắc mưu các thế lực thù địch.


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA CHIẾN THẮNG 30/4/1975

 Chiến thắng 30/4/1975, là một sự kiện trọng đại có tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc trong thế kỷ XX, đó là thắng lợi của chính nghĩa trước bạo lực, cường quyền; là biểu tượng sáng ngời về ý chí bất khuất, khát vọng hòa bình, tự do của dân tộc Việt Nam cũng như nhân loại tiến bộ không thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc.

1, Chiến thắng 30 – 4, giá trị lịch sử trường tồn mãi với thời gian. Chiến thắng 30 – 4 đã qua đi 43 năm, nhưng ý nghĩa, giá trị to lớn của nó vẫn trường tồn mãi với thời gian, nhất là đối với các dân tộc đã và đang nỗ lực đấu tranh vì sự tiến bộ, văn minh, hạnh phúc. Ca ngợi, đánh giá tích cực đối với sự kiện này, luôn là chiều hướng chủ đạo, được thế giới quan tâm, thừa nhận trong suốt những năm qua. Chúng ta đều biết, lịch sử dân tộc Việt Nam đã ghi nhận nhiều chiến công hiển hách, đã từng đánh bại nhiều đội quân xâm lược hùng mạnh, nhưng chưa bao giờ dân tộc ta lại phải đương đầu với đội quân xâm lược hơn hẳn ta về nhiều phương diện như đế quốc Mỹ. Vì vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược thực sự là cuộc đối đầu về ý chí, bản lĩnh và trí tuệ của Đảng, nhân dân, quân đội Việt Nam. ¬Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là một trong những mốc son vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX, bản thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, được bè bạn quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, xem đó như một biểu tượng của tinh thần quả cảm, không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược.

2, Sự thất bại của Đế quốc Mỹ ở Việt Nam là một tất yếu không thể tránh khỏi. Thực tế, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do Mỹ khởi xướng có sự tiếp tay của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn đã thất bại thảm hại vào 30 – 4 – 1975 là một tất yếu không tránh khỏi. Nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất dẫn tới thất bại, trước hết, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô cùng tàn bạo. Từ lâu, Mỹ đã coi miền Nam Việt Nam là địa bàn chiến lược, để ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á. Họ cần có một chính phủ chống Cộng, biết nghe lời và phục vụ đắc lực cho mưu đồ bá chủ thế giới. Thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, trong khi Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình, thì ngay từ đầu, Mỹ và chế độ Ngô Đình Diệm, sau đó là chế độ Nguyễn Văn Thiệu đã rắp tâm tìm mọi cách chia cắt, phá hoại công cuộc hòa bình, thống nhất đất nước. Các yêu cầu đàm phán, tiến tới Tổng tuyển cử, thống nhất hai miền Nam – Bắc liên tiếp được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đưa ra nhưng đều bị từ chối. Thay vào đó, các chiến dịch lê máy chém khắp miền Nam, đàn áp khốc liệt những người kháng chiến cũ, những đảng viên Cộng sản, những ai mong muốn thống nhất đất nước. Tiếp đó, các chiến lược: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh tàn phá miền Nam, tiêu diệt phong trào đấu tranh của quần chúng, nhằm thực hiện mưu đồ áp đặt cai trị của chúng.

Đã từng phải chịu đựng những thử thách, hy sinh bởi chiến tranh, chia rẽ vùng miền và sự thống trị của ngoại bang, nên hơn ai hết, người dân Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình, độc lập và thống nhất đất nước. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam đã tranh thủ mọi thời cơ để gìn giữ, bảo vệ những giá trị đó, nhưng Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã chà đạp, phá hoại những nguyện vọng thiêng liêng chính đáng của nhân dân Việt Nam, buộc chúng ta không còn lựa chọn nào khác là phải tiếp tục chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trải qua hơn 20 năm, vượt qua vô vàn gian khổ, hy sinh, dân tộc Việt Nam đã chiến thắng một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng hậu hàng đầu thế giới.

3, Lịch sử là thước đo chân lý và bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, đã được bè bạn quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, vậy mà vẫn còn những tiếng nói lạc lõng cố tình phủ nhận sự thật lịch sử với động cơ, mục đích đen tối, định kiến, thù địch. Tìm cách đổi trắng thay đen giữa kẻ đi xâm lược đã từng gây vô vàn tội ác cho dân tộc Việt Nam với những người đã không tiếc máu xương hy sinh vì hoà bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Chiến tranh đã lùi xa, sự phân định giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa chiến thắng và thất bại đã rõ ràng cả thế giới đã ghi nhận. Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của nhiều quốc gia; trong đó, có cả các quốc gia từng trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, nay cùng hợp tác, phát triển. Thế nhưng, vẫn còn một số người, mỗi khi đến dịp 30 – 4, họ lại tìm cách khuấy lên sự thù hận với các lý lẽ, luận điệu phi lý, ngụy biện, sống sượng xung quanh vấn đề tính chất của cuộc chiến tranh. Sự can thiệp trắng trợn, vô nhân đạo của đế quốc Mỹ vào chủ quyền của dân tộc Việt Nam được họ coi là một hành động để bảo vệ nền dân chủ. Những người theo chân Đế quốc Mỹ phản bội Tổ quốc, tàn sát đồng bào mình lại được họ coi là một sự lựa chọn đúng, là một lý tưởng cao đẹp. Họ cố tình đặt điều, lấp liếm cho hành động xâm lược, rằng: miền Bắc xâm lược miền Nam hay cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1954 đến 1975 chỉ là nội chiến. Có người còn cho rằng: không cần phải phát động chiến tranh, không cần phải hy sinh xương máu đồng bào một cách vô nghĩa, đến một lúc nào đó thực dân đế quốc tự phải trả lại chủ quyền đất nước, v.v.. Thật là xằng bậy! Sự ngụy biện tùy tiện, đổi trắng thay đen diễn ra ở một số người tự xưng là “có tâm với nước, với dân”, thật là đê tiện, không biết hổ thẹn. Tuy nhiên, chân lý chỉ có một, lịch sử và sự kiểm nghiệm lịch sử là thước đo chân lý chuẩn xác, bác bỏ mọi xuyên tạc sai sự thật.


CỐ TÌNH LỢI DỤNG TỰ DO NGÔN LUẬN ĐỂ XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 Nguyễn Lân Thắng – Kẻ được coi là gen lỗi của dòng họ nổi tiếng Nguyễn Lân, dòng họ có những cống hiến to lớn cho Tổ quốc Việt Nam.  Nhưng Thắng lại vừa nhận mức án 6 năm tù và quản chế 2 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù về tội “Làm, tàng trữ, tán phát hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự.

Thủ đoạn của Nguyễn Lân Thắng là tìm cách “đánh bóng” bản thân để mọi người lầm tưởng mình là nhà báo tự do. Đi đâu Thắng cũng kè kè chiếc máy ảnh để sẵn sàng chớp những khoảnh khắc, hình ảnh phản cảm, tiêu cực, sau đó “thêm mắm thêm muối” nói xấu chế độ, quy chụp, phỉ báng chính quyền.

Cứ ở đâu có sự kiện "nóng", thu hút sự quan tâm của dư luận là Thắng có mặt, đưa tin tiêu cực, hô hào, kích động. Có khi, do thiếu “sự vụ”, Nguyễn Lân Thắng sẵn sàng áp dụng chiêu thức “Chí Phèo”, liều lĩnh xông vào cơ quan chức năng để chụp hình, tán phát thông tin sai lệch, nói xấu lực lượng vũ trang, điển hình như vụ vu khống Công an trại Lộc Hà đánh người...

Chứng kiến các hành vi vi phạm pháp luật của Nguyễn Lân Thắng, không ít người dân yêu nước mong muốn cơ quan chức năng phải xử lý nghiêm minh đối tượng này để răn đe, cảnh tỉnh cho những kẻ đang có hành vi tương tự, từ đó dọn bớt những thông tin “rác” trên mạng xã hội.

Như vậy, xâu chuỗi các hoạt động của Nguyễn Lân Thắng, có thể khẳng định đây là đối tượng chống phá Nhà nước có chủ đích, trong thời gian dài, với biểu hiện ngày càng ngang nhiên, quyết liệt, không có sự ăn năn, hối cải. Chính vì vậy, việc Tòa án nhân dân TP Hà Nội tổ chức xét xử, tuyên phạt mức án nghiêm minh đối với Nguyễn Lân Thắng là hết sức cần thiết.


NĂNG ĐỘNG SÁNG TẠO NHƯNG PHẢI TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC TRONG MỌI HÀNH ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM

 Ranh giới giữa năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm đến vi phạm pháp luật dẫn đến phạm tội rất mong manh. Bởi vậy mỗi hành động và việc làm phải tuân thủ nguyên tắc, pháp luật hiện hành của Việt Nam.

Tình trạng hiện nay thể chế pháp luật trong lĩnh vực hành chính tư pháp như đăng ký, quản lý hộ tịch chứng thực, quốc tịch, nuôi con nuôi... ngày càng được hoàn thiện, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo hướng công khai, minh bạch, thuận lợi cho người dân. Tuy nhiên, cán bộ thực hiện cũng chỉ cần không giữ vững lập trường, sẽ dễ vấp phải vòng lao lý khi lợi dụng sơ hở, chồng chéo, mâu thuẫn và bất cập trong pháp luật để thu lợi ích bất chính. Việc nhỏ lớn dần, những việc làm đó sẽ đưa cán bộ đến  vi phạm việc lớn hơn và dần dần là vi phạm pháp luật.

Vì vậy, cùng với rà soát những quy định còn sơ hở, bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn, cản trở sự phát triển để tham mưu sửa chữa kịp thời, nhất là các vấn đề về quốc phòng - an ninh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, sự kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng - an ninh... ; đồng thời, phát huy cơ chế giải thích pháp luật, tránh sợ sai, không dám làm. Thì chính cán bộ thực thi cần rèn luyện đạo đức, tư cách để không ham lợi ích mà vướng vào sai phạm pháp luật.


CHÀO THÁNG TƯ LỊCH SỬ: 30/4 – CHÚNG TÔI NHỚ, CHÚNG TÔI TỰ HÀO !



Chúng tôi sinh ra trong hòa bình – độc lập. Thế hệ của chúng tôi không có những ngày khoác áo rơm đi học dưới hầm, trú bom trong ống cống, không phải ăn bo bo hay cơm độn ngô, độn sắn. Chúng tôi lớn lên khi đất nước không còn chia Bắc – Nam, không còn cảnh “một nhà chia đôi”. Chúng tôi biết đến chiến tranh qua những câu chuyện của ông, qua chiếc chân giả của chú, qua cảm xúc vỡ òa của ngày bác tôi lặng lẽ trở về sau 10 “đám giỗ”. Chúng tôi biết đến hòa bình qua những tấm bia mộ khắc dòng chữ “Chưa biết tên anh nhưng chiến công anh bất diệt”, qua những nghĩa trang Trường Sơn nằm tựa mình bên núi, qua những ngôi mộ của gia đình hàng xóm trúng bom nằm sau vườn…. Chỉ vậy thôi cũng đủ để mỗi khi đứng dưới bóng cờ là con tim ngân lên tiếng ca “Đoàn quân Việt Nam đi…”
Chúng tôi nhớ câu chuyện về cây cầu Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải làm gianh giới tạm thời chia cắt hai miền Nam – Bắc. Lính Việt Nam Cộng hòa (Ngụy quyền Sài Gòn) muốn sơn cây cầu thành hai màu khác nhau để phân biệt. Cứ mỗi khi “lính cộng hòa” đổi màu sơn cho nửa bên kia cây cầu thì ngay đêm hôm ấy, “lính cộng sản” lại lặng lẽ sơn nửa bên này cầu theo đúng màu sơn của bên ấy bởi “Nam – Bắc một nhà, không một thế lực nào có thể chia cắt được”.
Chúng tôi nhớ cuốn sách viết về những chuyến tàu không số, những người tù Côn Đảo kiên trung. Nhớ những con người anh dũng đã nằm lại dưới biển xanh để đất nước tôi ngày hôm nay độc lập.
Chúng tôi nhớ hình ảnh những người chàng trai, cô gái tuổi mười tám đôi mươi đã xếp bút nghiên lên đường chiến đấu. Vừa cởi áo học trò khoác áo lính, họ bước vào trận chiến một mất một còn với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Chúng tôi nhớ các bà, các mẹ vai khoác súng tay cầm liềm, vừa chiến đấu vừa sản xuất, làm việc bằng hai để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Chúng tôi nhớ những người đã nằm lại ngay trước ngày giải phóng, ngay trước cửa ngõ tiến vào Sài Gòn, tôi nhớ người lính anh hùng trước lúc bị hành quyết vẫn hô to “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”.
Chúng tôi nhớ hình ảnh đường phố Sài Gòn ngập tràn cờ và hoa chào đón đoàn quân giải phóng. Nhớ những chuyến tàu Bắc – Nam mang tên Thống Nhất.
Lịch sử thì không bao giờ có “nếu như, giá mà, giả sử….”. Lịch sử chỉ có một kết quả duy nhất. Nó là thành quả của những năm trường kỳ kháng chiến, nó được xây nên từ xương máu của biết bao nhiêu thế hệ con dân Việt. Không bao giờ có chuyện không cần đánh đuổi thì Pháp, Mỹ cũng sẽ tự rút. Không có thằng ăn cướp nào đến cướp đất chỉ để xây nhà cho bạn rồi nó tự đi. Hòa bình – độc lập hôm nay không phải ngẫu nhiên mà có, càng không phải ai đó tốt bụng mang đến cho. Cha ông chúng ta – lớp lớp những thế hệ đi trước đã phải chiến đấu để giành lấy, đã phải dùng xương máu của mình để xây nên. Dù không phải trải qua những năm tháng hy sinh gian khổ ấy, nhưng chúng ta phải nhớ để dạy lại con cháu mình rằng cái giá của độc lập – tự do được trả bằng sự hy sinh của hàng triệu người.
30/4 – Tôi nhớ, tôi tự hào vì “Đất nước ta đã có một thời như thế”
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, một Việt Nam bé nhỏ đã chứng minh cho cả thế giới thấy sức mạnh quật cường của tinh thần đoàn kết dân tộc. Hóa ra cái mảnh đất hình chữ "S" nằm bên bờ Biển Đông ấy không dễ bị bắt nạt. Khởi đầu với những gậy tầm vông, những giáo mác thô sơ, những người dân thật thà, hiền hậu ở cái xứ ấy đã kiên cường chống lại những đại bác, những hạm đội, những pháo đài bay. Lớp này ngã xuống, lớp khác lại đứng lên. Cứ như vậy, dân tộc tôi đã kiên cường, bất khuất, chiến đấu cho đến ngày chiến thắng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau những gian khổ, hy sinh với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”, nhân dân Việt Nam đã giành được độc lập – tự do trọn vẹn sau hơn 100 năm Pháp thuộc, 21 năm Mỹ thuộc. Sự hy sinh của lớp lớp người Việt Nam đã được đền đáp xứng đáng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau 21 năm bị chia cắt, đồng bào tôi đã có thể tự do đi lại giữa hai miền Nam Bắc. Sau 21 năm bị ngăn đôi bởi dòng sông Bến Hải, đất nước tôi đã liền một dải, non sông đã thu về một mối.
Nếu có ai đó hỏi chúng tôi rằng tại sao chúng tôi tự hào. Chúng tôi sẽ nói: Chúng tôi tự hào vì đất nước chúng tôi, vì dân tộc chúng tôi, vì đồng bào chúng tôi kiên cường, bất khuất. Chúng tôi tự hào vì cha ông chúng tôi đã sống, đã chiến đấu hết mình vì độc lập – tự do. Chúng tôi tự hào vì bây giờ nếu có ai đó hỏi chúng tôi tới từ đâu, chúng tôi sẽ trả lời: Chúng tôi là người Việt Nam, không phải Bắc Việt Nam hay Nam Việt Nam, mà chỉ đơn giản là Việt Nam thôi.
30/4/1975 – Chúng tôi nhớ, chúng tôi tự hào
Khải Hoàn




NGƯỜI DÂN NÊN PHÂN BIỆT RÕ CÁC TRANG MẠNG XÃ HỘI CHÍNH THỐNG VÀ CÁC TRANG GIẢ MẠO



Kiểm chứng cơ sở nguồn tin, xem thông tin đó đến từ nguồn nào, nếu đến từ một người lạ, thông tin không rõ ràng cần cảnh giác, có thể xem mục giới thiệu để kiểm tra.
Kiểm tra tên miền của trang mạng đăng tải thông tin, thường nguồn phát của thông tin xuyên tạc, giả mạo thường là những trang mạng có tên miền nước ngoài (.com, .org), không có đuôi tên miền Việt Nam “.vn”. Các trang mạng chính thống của cơ quan tổ chức Nhà nước có tên miền quốc gia “.vn” và có địa chỉ, thông tin đăng ký cụ thể rõ ràng trên trang.
Đối với các trang mạng xã hội của các cơ quan, tổ chức chính thống, thường đã được đăng ký với nhà cung cấp dịch vụ và được cung cấp dấu bản quyền (dấu tích xanh, ví dụ như trang Thông tin Chính phủ). Người dân nên quan sát và phân biệt rõ các trang mạng xã hội chính thống và các trang giả mạo.
Kiểm tra tác giả, đọc kỹ nội dung để suy ngẫm xác định thông tin thật hay giả; tin tức giả hay bị lỗi chính tả hoặc có bố cục lộn xộn, các hình ảnh, video trong tin giả thường bị chỉnh sửa, cắt ghép, thay đổi nội dung, ngày tháng của sự kiện thường bị thay đổi.
Tìm các tin, bài viết trên các trang chính thống, uy tín có nội dung tương tự để đối chiếu hoặc xin sự tham vấn của các chuyên gia trên từng lĩnh vực.
Lựa chọn thông tin đăng tải, chia sẻ từ những trang mạng xã hội nên tiếp cận các luồng thông tin chính thống; không tham gia đăng tải, chia sẻ, bình luận thông tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, trái với thuần phong mỹ tục và văn hóa của dân tộc hoặc bôi nhọ, xúc phạm danh dự của tổ chức và cá nhân; thông tin trái với quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hoạt động vi phạm pháp luật hoặc thông tin mà chưa rõ nguồn gốc, chưa xác định được tính chính xác của thông tin.
Trường hợp phát hiện các hoạt động nghi có dấu hiệu vi phạm pháp luật cần báo ngay cho các cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý. Đẩy mạnh thông tin tích cực, có ý nghĩa trong cuộc sống, đấu tranh, phê phán lên án hành vi sai trái vi phạm trên mạng xã hội./.
Nguyễn Khiêm

VẪN BÌNH CŨ RƯỢU CŨ



Trước mỗi kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, các đối tượng thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá. Bản chất, mục đích của chúng không thay đổi nhưng thủ đoạn ngày càng tinh vi, vì vậy cần nhận diện để có biện pháp đấu tranh. Thời gian gần đây , khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng thù địch, phản động lại tập trung công kích, tuyên truyền chống phá vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội. Âm mưu của chúng là gây nhiễu loạn thông tin, tạo sự hoang mang, hoài nghi trong nhân dân, gây mất niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, tiến tới mục tiêu làm chệch đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có thể thấy, luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, chống phá trước thềm Đại hội XIII của Đảng của các đối tượng nói trên rất đa dạng, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
Không chỉ xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng còn tăng cường xuyên tạc, chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh với các thủ đoạn tinh vi, được ẩn sau những luận điệu như đối lập giữa Tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bên cạnh đó, chúng còn đưa ra các luận điệu công kích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt, cho rằng kinh tế thị trường là kinh tế tư bản chủ nghĩa, không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN, đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là “chắp vá”, “không tưởng”; “kinh tế thị trường và CNXH mâu thuẫn như nước với lửa, không thể dung hòa, không thể nào có định hướng XHCN nếu chấp nhận phát triển kinh tế thị trường…”.
Đặc biệt, Trong những năm gần đây, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ do Đảng phát động đã đạt được những kết quả rất quan trọng. Thế nhưng, các đối tượng thù địch, phản động, những phần tử cơ hội chính trị lại xuyên tạc rằng, “tham nhũng là sản phẩm tất yếu của chế độ công hữu tư liệu sản xuất, chuyên chế độc đảng”, “còn chế độ công hữu, chế độ độc đảng thì không chống được tham nhũng”.
Càng gần đến ngày diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại càng gia tăng hoạt động tuyên truyền chống phá. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, mỗi chúng ta cần phải luôn tỉnh táo, nâng cao cảnh giác, nhận diện đúng và chủ động phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, vạch trần các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Thường xuyên bám sát các vấn đề, sự kiện chính trị liên quan tới đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng để cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, có định hướng theo quan điểm, đường lối của Đảng và yêu cầu của xã hội cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân. Qua đó giúp người dân có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, đồng thời “miễn dịch” với những thông tin xuyên tạc, sai trái này./.

 Lê Hữu


NHẬN DIỆN ÂM MƯU XUYÊN TẠC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



Những năm gần đây, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên internet và các trang mạng xã hội, diễn đàn… xuất hiện một số quan điểm sai lệch đề cập đến chủ thuyết phát triển của Việt Nam, đến nền tảng tư tưởng của Đảng ta: Hoặc là phủ nhận hoàn toàn nền tảng tư tưởng của Đảng và của xã hội Việt Nam, như: “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không thể là nền tảng xây dựng và phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay” hay “Văn hóa Việt Nam với các giá trị vốn có là tài sản tinh thần duy nhất để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh”; hoặc là tuyệt đối hóa hay tách rời Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như: “Nền tảng tư tưởng của xã hội Việt Nam hiện nay chỉ cần Chủ nghĩa Mác-Lênin là đủ” hay “Chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ làm nền tảng tư tưởng phát triển của xã hội Việt Nam”... Không những xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn rắp tâm xuyên tạc, bôi nhọ cả về thân thế, sự nghiệp của Người; cho rằng, Hồ Chí Minh không có di sản nào, thay vào đó là những “di họa”. Chúng gán cho Hồ Chí Minh là “người bị buộc phải gánh vác tư tưởng”. 
Để hiện thực hóa âm mưu đen tối “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”, chúng lợi dụng tự do tư tưởng, ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi, có lúc trắng trợn, có lúc ẩn sâu dưới vỏ bọc “nhà dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” để nêu lên cái gọi là “ý kiến”, “kiến nghị”, “thư ngỏ”, tổ chức họp báo, tọa đàm, hội thảo… trong từng giới, từng lớp người. Đồng thời, đối lập cực đoan giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với các học trò xuất sắc của Người (như Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…), những người hoạt động cùng thời; giữa hoàn cảnh lúc sinh thời với hiện tại... Mục đích của họ là để hậu thuẫn cho những quan điểm phản động và đưa mọi người đến chỗ hiểu sai về Hồ Chí Minh. Nguy hiểm hơn, mục đích của họ là tác động vào lớp trẻ, những người có năng lực, thông minh, nhiệt huyết, nhưng ý thức chính trị còn có những hạn chế, còn thiếu sự trải nghiệm và cảm nhận thấu đáo về cách mạng Việt Nam và Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vai trò là lý luận của sự phát triển, nguồn năng lượng dồi dào cho dân tộc Việt Nam trên bước đường hội nhập, toàn cầu hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là những thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm sai lệch bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh, trực tiếp công kích, đả phá nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ ta. Thực chất là họ muốn “giải thiêng”, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh-biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ cộng sản lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Mệnh lệnh cuộc sống
Từ giá trị lớn lao của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; từ thực tiễn đấu tranh bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, thực tiễn phòng, chống âm mưu hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh nói riêng, đã, đang và sẽ đặt ra một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, phòng, chống âm mưu hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh là “mệnh lệnh cuộc sống”, là tình cảm và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với nghiên cứu chuyên sâu Chủ nghĩa Mác-Lênin; trong đó phải khẳng định cho được giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề cần bổ sung, phát triển hoặc bị lịch sử vượt qua trên lập trường của GCCN.
Ba là, không ngừng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là năng lực nghiên cứu cơ bản, năng lực vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam gắn với năng lực nhận diện, đấu tranh có hiệu quả với kẻ thù tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc đối với Đảng ta, là nhiệm vụ quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận, nhất là trong bối cảnh mới của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta; trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng tuyệt đối không được xa rời hoặc từ bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách sâu rộng ở cơ sở trong tình hình mới.
Năm là, tăng cường cung cấp thông tin kịp thời, quản lý hiệu quả nguồn thông tin gắn với thực hiện nghiêm Luật An ninh mạng; kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh các hiện tượng xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ, hạ bệ Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh./.
Trí Triều


NỰC CƯỜI CHO NHỮNG KẺ “HOÀI NIỆM” VỀ MỘT CHẾ ĐỘ ĐÃ SỤP ĐỔ



Như một thói quen, cứ đến dịp gần ngày 30 tháng 4 thì thấy trên các báo đài nước ngoài như VOA, RFI, BBC hay các trang mạng phản động lại đưa tin về một trò hề diễn ra trên đất Mỹ của một số phần tử đang ôm mộng khôi phục  lại một chế độ đã sụp đổ, đó là chế độ Việt Nam Cộng hòa. Có lẽ đây là sự “hoài niệm” của những kẻ tâm thần, ngớ ngẩn.
Thật buồn cười, những kẻ tâm thần này đang tổ chức một “sự kiện” theo kiểu nhà binh mà khi nhìn vào nhiều người sẽ lầm tưởng đó là buổi cầu nguyện của một tà giào thì đúng hơn. Với sự xuất hiện của những lão già hom hem, gần đất xa trời, lưng lưng không còn thẳng, râu ria xồm xoàm, nhìn không có một chút sự sống nhưng vẫn cố tỏ vẻ ta đây là oai hùng, bệ vệ với trang phục rằn ri dã chiến của lính ngụy và với cái lá cờ vàng ba sọc biểu tượng cho một chế độ đã sụp đổ từ rất lâu mà không ai muốn nhắc đến nữa ( không biết mấy cái lão già này khi đi lính cho chế độ VNCH này làm đến chức gì nữa ?). Buồn cười hơn là cũng chính từ miệng của mấy lão già này tuyên bố sẽ khôi phục lại chế độ VNCH thối nát đã sụp đổ từ lâu trên đất nước Việt Nam.
Không biết được bao nhiêu người tin vào lời của những kẻ đó và cũng không biết bao nhiêu người tham gia vào cái lễ “tưởng niệm” lố bịch này, nhưng nhìn vào thì đã thấy được bộ mặt và sự suy nghĩ hết sức ngây ngô và ngớ ngẩn của những kẻ ảo tưởng, mộng mị và không một biết xấu hổ này. Có lẽ những người đi đường nhìn vào những kẻ này đang diễn trò cũng thấy vui mắt và chắc người ta cũng tặc lưỡi và không chấp vặt những kẻ tâm thần này.
Thiết nghĩ những kẻ dở hơi trên sống trên cõi đời này cũng không còn được bao lâu nữa, trong thời gian ngắn ngũi còn lại thì nên sống thế nào cho tử tế, suy nghĩ lại và chấp nhận một điều thực tế rằng chế độ mà những kẻ dở hơi này đang “thờ cúng” nó đã biến thành “thây ma” từ lâu rồi, chẳng ai muốn nhắc đến nó làm gì nữa. Từ đây nên chấm dứt làm những cái trò hợm hĩnh, lố bịch đó nữa, vì càng nhắc đến thì nổi ô nhục càng lớn. Chấm dứt đi là được rồi./.
Vũ Huyến

DÙ NĂM THÁNG CÓ TRÔI QUA NHƯNG LỊCH SỬ VẺ VANG VẪN SỐNG MÃI



          Ngày 30/4/1975, đại thắng mùa xuân đã làm thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, giải phóng miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến cứu nước lâu dài nhất, khó khăn nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12/1976 đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Hay đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trong quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, ba cái mc chói lọi bằng vàng: Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến thắng mùa xuân 1975, đại thắng mãi mãi sáng ngời trong sử sách. Nhân dân Việt Nam đã làm nên câu chuyện thần kì tưởng chừng không thể làm được giữa thế kỷ XX. Lần đầu tiên trong lịch sử, một dân tộc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển, đánh thắng những cường quốc, đế quốc chủ nghĩa chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trước toàn thế giới”.    
          Vào cuối năm 1974, đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng ta, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Nhưng Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyết định đặt tên Chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang-đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.
          Vào lúc 17 giờ ngày 26/4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân takhông điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.              
          Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới./.
 Viết Hoàng 



Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

"BẮN KHÔNG RƠI, TÔI XIN LAO THẲNG VÀO B-52" - LỜI LIỆT SĨ VŨ XUÂN THIỀU, ANH ĐÃ BIẾN MÌNH THÀNH QUẢ TÊN LỬA, TIÊU DIỆT CHIẾC B52 CUỐI CÙNG TRÊN BẦU TRỜI HÀ NỘI.

 


Thượng úy Không quân Vũ Xuân Thiều báo cáo: “Bắn B-52 địch không rơi tại chỗ, tôi xin lao thẳng vào nó”. Ngày 28/12/1972, anh đã lao thẳng chiếc MiG-21 của mình vào B-52 Mỹ. Hoa Kỳ công nhận đây là chiếc máy bay cuối cùng bị Không quân miền Bắc bắn hạ tại chỗ.

Người phi công đã đi vào huyền thoại như một con đại bàng phát sáng trong đêm, người đã biến MiG-21 thành “quả tên lửa thứ 3” diệt B-52 của Mỹ: liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân Vũ Xuân Thiều.

Vũ Xuân Thiều sinh tháng 2/1945, là con thứ 7 trong một gia đình có 10 người con, quê gốc ở Hải Hậu, Nam Định. Ông Vũ Xuân Sắc, bố của Thiều là một chí sĩ yêu nước, sớm giác ngộ và có nhiều đóng góp cho cách mạng.

Phát huy truyền thống của gia đình, khi đang là sinh viên khoá 7, ngành Vô tuyến điện, Trường Đại học Bách khoa, Thiều đã cùng 10 người bạn cùng trường làm đơn tình nguyện và được tuyển chọn vào Quân chủng Phòng không - Không quân. Một tháng sau khi có quyết định, ngày 22/6/1965, các anh theo đoàn tàu lửa từ ga Hàng Cỏ hành trình qua Liên Xô đi học lái máy bay tiêm kích phản lực MiG-21.

Từ nước bạn, Thiều và các bạn mình được tin: Mỹ đã dùng máy bay B-52 oanh tạc miền Bắc Việt Nam ở đèo Mụ Giạ, Quảng Bình. Các phi công Việt Nam cùng khoá học với Thiều, ai nấy đều thể hiện quyết tâm, ngày đêm luyện tập để nhanh chóng về nước, tiêu diệt nhiều máy bay Mỹ, tìm cách bắn rơi B-52.

CẢM TỬ LẬP CHIẾN CÔNG LỚN

Với thành tích học tập xuất sắc, năm 1968, Vũ Xuân Thiều về nước, nhận nhiệm vụ chiến đấu tại Trung đoàn 921. Sau đó, anh được điều về phi đội 5. Đây là đơn vị chuyên bay và chiến đấu ban đêm, gồm những phi công có trình độ kỹ thuật, chiến thuật cao, có lòng dũng cảm, mưu trí..

Thời gian này, máy bay B-52 Mỹ liên tục ném bom rải thảm trên đường mòn Hồ Chí Minh, nhằm ngăn chặn những hoạt động chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1971, một số sĩ quan Không quân được cử đến Quảng Bình, Vĩnh Linh nghiên cứu hoạt động chiến đấu của máy bay B.52. Một số đơn vị rađa cũng được điều đến đây nhằm bảo đảm cho các đơn vị Phòng không - Không quân đánh thắng B-52 Mỹ.

Đêm 20/11/1971, được thông báo có B-52, Vũ Đình Rạng nhận lệnh xuất kích từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An), phóng tên lửa trúng chiếc B-52 Mỹ, do phi công Kalp Wetter Haln điều khiển. Chiếc B-52 không rơi tại chỗ nhưng bị hỏng, phải hạ cánh xuống sân bay Nakhon Phanomb ở Thái Lan, sau đó phải tháo rời đưa về Utapao. Cuối tháng 12/1972, Kalp Wetter Haln bay trên một chiếc B-52 khác, bị tên lửa ta bắn rơi tại Hà Nội, bị bắt làm tù binh, đã khai với Việt Nam, trường hợp máy bay B-52 của Kalp bị Mig-21 của Vũ Đình Rạng bắn rơi.

Ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon thông qua kế hoạch dùng máy bay B-52 đánh Hà Nội và Hải Phòng. Tối 27/12, được Sở chỉ huy thông báo có B-52 từ phía Mộc Châu đến, lúc 22 giờ 30, phi công Phạm Tuân nhận lệnh cất cánh từ sân bay Yên Bái, phát hiện mục tiêu, đã tăng tốc độ, đạt 1200km/h, bay lên độ cao 10.000m, phóng hai tên lửa ở cự ly 2.000m, tiêu diệt chiếc B-52 số 2 rồi vòng gấp sang trái, hạ cánh an toàn xuống sân bay Yên Bái.

Rút kinh nghiệm đánh B-52 của phi công Vũ Đình Rạng và Phạm Tuân, thực hiện quyết tâm: “Bắn rơi B-52, bắt sống phi công Mỹ”, Thượng úy, phi công Vũ Xuân Thiều báo cáo với Trung đoàn trưởng: “Lần sau khi phát hiện B-52, xin phép cho tôi được xuất kích tiêu diệt. Bắn mà B-52 không rơi tại chỗ, tôi sẽ xin lao thẳng vào nó”.

Không thể tiếp tục trực đánh B-52 ở các sân bay phía Bắc, Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng sân bay Cẩm Thủy, Thanh Hóa, cho MIG trực chiến để tạo sự bất ngờ. Ngày 28/12/1972, phi công Vũ Xuân Thiều được lệnh đưa máy bay bí mật cơ động vào sân bay Cẩm Thủy để sẵn sàng đánh B-52.

Đến 21 giờ 41 phút, Sở chỉ huy lệnh cho phi công 26 tuổi, Vũ Xuân Thiều cất cánh, với tên mật: XB-90, lên đánh vào một tốp B-52 bay vào đánh Hà Nội. Chiếc MiG-21 gầm lên, chạy đà rồi nhanh chóng vút lên không trung... 15 phút sau, Vũ Xuân Thiều được dẫn bay hướng về vùng trời Yên Châu (Sơn La). Nhưng Thiều phát hiện thấy B-52, khi đang ở độ cao 10km, góc vào 90 độ, cự ly chỉ 4km, anh phải nhìn bằng đèn, vì không dám bật rađa, để tránh các máy bay F-4, F-111 bảo vệ B-52.

Không thể bay vượt qua rồi mới vòng lại công kích, bởi như vậy đối phương sẽ phát hiện ra có MiG và kịp thời đối phó. Mặc dù ở cự ly gần, Thiều vẫn xin lệnh công kích. Quả tên lửa thứ nhất rồi quả thứ hai phóng về hướng chiếc B-52. B-52 bị trúng đòn, nhưng vẫn ngoan cố lao về phía trước, nhằm thực hiện ý đồ trút bom xuống Hà Nội. Không để những trái bom tội ác địch ném xuống Hà Nội, nhưng đạn đã hết, vũ khí duy nhất của Thiều lúc này là tinh thần cảm tử.

Thiều xin lệnh tấn công tiếp. Các sĩ quan ở Sở chỉ huy chưa kịp đưa ra chỉ thị gì, thì trên bầu trời Sơn La, một tiếng nổ long trời lở đất, liền đó một quầng lửa bùng lên sáng rực giữa đêm đen. Tại Sở chỉ huy, các sĩ quan điều khiển cũng nhận thấy tín hiệu của Thiều trên bản đồ bay đã hoàn toàn biến mất.

Ngày 29/12/1972, tỉnh đội Sơn La báo cáo: “Đêm qua, trên cánh đồng xã Tạ Khoa, Yên Châu, Sơn La, có một máy bay B.52 bị cháy rơi, một MiG-21 cũng rơi gần đó”. Một số phi công trong phi đội bay đêm nhận lệnh đến ngay Tạ Khoa, tìm đến khu vực B.52 của Mỹ bị cháy rơi. Chiếc MiG-21 của Vũ Xuân Thiều nằm cách đấy không xa.

Vũ Xuân Thiều đã thực hiện ý chí tiêu diệt địch khi cùng với chiếc MiG-21 biến thành quả tên lửa thứ 3 lao vào kẻ thù, như lời anh từng nói. Thêm một chiếc B-52 bị không quân Việt Nam bắn rơi, chiến công của phi công Vũ Xuân Thiều được ghi nhận. Sau này, vào năm 1994, anh được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

CẢM ƠN THẾ HỆ ĐI TRƯỚC, THẾ HỆ HUYỀN THOẠI!