Thứ Ba, 18 tháng 10, 2022

Ý ĐỒ XOÁ MỜ LỊCH SỬ ĐỂ LÀM PHAI NHẠT Ý CHÍ CÁCH MẠNG, LÒNG YÊU NƯỚC VIỆT NAM


 Tướng Mỹ Macnamara đã rút ra nguyên nhân Mỹ thất bại quan trọng nhất là "không hiểu con người và lịch sử Việt Nam". Họ cay cú và hứa sẽ trở lại sau 20 năm. Nhưng không phải với súng đạn mà bằng đô la?

Lịch sử Việt Nam đã được lưu vào sử sách. Muốn thay đổi cũng khó. Chỉ còn cách làm con người Việt Nam trong tương lai quên đi lịch sử của mình.

Để làm thay đổi lịch sử Việt Nam, họ mua chuộc, dụ dỗ một số người mang danh "Nhà sử học" núp bóng dưới chiêu bài nghiên cứu lịch sử để xuyên tạc những tấm gương lịch sử, đòi thay đổi cách gọi chính quyền ngụy, tô vẽ các nhân vật phản động, bán nước thành những danh nhân... và cài dần vào sách giáo khoa lịch sử những mầm đ.ộ.c này.

Đặc biệt, để người Việt Nam quên đi lịch sử của mình, họ gây ra cả một trận chiến tâm lý coi thường môn Lịch sử, giảm dần vai trò môn Lịch sử trong hệ thống các môn học. Dần dần biến nó thành môn "ai thích học thì học, không thích học thì bỏ đi". Thực hiện âm mưu thâm đ.ộ.c này, nhiều nhà "Cải cách giáo dục Việt Nam" đã ngày đêm viết bài, vận động thay sách giáo khoa hoặc sửa đổi sự thật lịch sử và đỉnh cao là biến môn Lịch sử thành môn tự chọn ở PTTH.

Thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam, tiêu diệt tư tưởng của CNXH và CNCS bằng mọi cách là mục tiêu bất di bất dịch của Mỹ và NATO. Tấn công vào hệ tư tưởng CNCS, Mỹ và NATO bắt đầu từ giáo dục.

Ý đồ xoá mờ lịch sử của các thế lực thù địch là hòng làm phai nhạt ý chí cách mạng, lòng yêu nước Việt Nam.  

Ở Việt Nam, song song với việc tấn công vào Lịch sử, họ cũng đồng thời tấn công vào môn Tiếng Việt (Ngữ Văn). Mượn tay các nhà "Cái cách giáo dục", họ tìm mọi cách tác động để sách giáo khoa Tiếng Việt (Ngữ Văn) loại bỏ ra khỏi chương trình giáo dục phổ thông hầu hết những bài viết mang tính lịch sử hoặc những bài thơ văn cách mạng có tính giáo dục cho thanh niên lý tưởng sống cao cả, tình yêu nhân loại cần lao... để đưa vào những bài viết giáo dục lối sống thực dụng của phương Tây. Làm khô héo tâm hồn giới trẻ, biến họ thành những người có lối sống thực dụng, trọng vật chất, ích kỷ cá nhân mà quên đi tình nghĩa, đạo lý…

Là người Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta có quyền và trách nhiệm tự hào về lịch sử oai hùng của dân tộc mình gắn liền với lý tưởng, con đường mà Bác Hồ đã chọn, với tình yêu sâu sắc và lòng kiên định như kiềng ba chân. Làm cho Mỹ không bao giờ giải quyết được bài học từ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam!

VIỆT NAM BỊ CHỐNG PHÁ KHI TRÚNG CỬ VÀO HỘI ĐỒNG NHÂN QUYỀN LIÊN HIỆP QUỐC, NHIỆM KỲ 2023-2025

 


Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 cùng nhiều cam kết, ưu tiên. Kết quả bầu cử cho thấy sự tham gia tích cực của Việt Nam trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, những cam kết và nổ lực mạnh mẽ của Việt Nam về thúc đẩy bảo vệ quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, tin tưởng và đánh giá cao.

Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam ứng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và chuẩn bị bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước về quyền của người dân tộc thiểu số (CERD), Công ước Chống tra tấn (CAT), triển khai các khuyến nghị UPR chu kỳ III, vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo tiếp tục bị các tổ chức thiếu thiện chí lợi dụng, tiến hành hoạt động chống phá. 

Các trang Facebook như "Việt Tân", blog "Việt Nam thời báo"… thường xuyên đăng tải thông tin xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Một số phần tử chống đối trong nước tích cực tham gia hội luận trực tuyến do bên ngoài tổ chức, xuyên tạc rằng “chính quyền Việt Nam “cướp đất” của người Khmer, đàn áp người dân tộc… Những báo cáo và những hoạt động chống phá của các tổ chức này đều nhằm mục đích chống Nhà nước Việt Nam, hạ uy tín của Việt Nam…

Dưới chiêu bài “phản biện, góp ý xây dựng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, các tổ chức phản động lôi kéo, kích động quần chúng đòi tự do dân chủ, nhân quyền theo tiêu chí Mỹ, phương Tây, kêu gọi chính giới Mỹ, phương Tây can thiệp, tác động chính quyền; dung túng, hậu thuẫn cho số chống đối, kêu gọi đưa Việt Nam trở lại “danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo”, trả tự do cho tất cả “tù nhân lương tâm”, đòi sửa đổi, xóa bỏ các điều luật hình sự quy định về tội Xâm phạm an ninh quốc gia.

Các thế lực thù địch cũng tăng cường tác động “từ bên ngoài” như đòi Nhà nước Việt Nam phải đáp ứng ngay tiêu chuẩn về các quyền dân sự, chính trị (tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí tư nhân, hoạt động tôn giáo không cần sự quản lý của Nhà nước…) theo tiêu chí phương Tây, gắn dân chủ, nhân quyền với các vấn đề hợp tác phát triển. Đặc biệt, họ đòi dân sự hóa hoạt động quốc phòng, an ninh nhằm thúc đẩy tối đa cái gọi là “xã hội dân sự” theo kiểu phương Tây.

Việc Việt Nam tiếp tục ứng cử là thành viên của Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025 là hoàn toàn xứng đáng. ASEAN cũng đã chính thức công nhận Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của khối. Đó là minh chứng xác đáng cho những thành tựu và nỗ lực không ngừng của Việt Nam cho một cuộc sống tươi đẹp trên hành tinh xanh./.

THI HÀNH KỶ LUẬT ĐẢNG VIÊN VI PHẠM ĐỂ GIỮ NGHIÊM KỶ LUẬT, KỶ CƯƠNG CỦA ĐẢNG


                Quá trình hơn 92 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta luôn coi trọng giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Hiện nay, vấn đề kỷ luật của Đảng càng cực kỳ quan trọng, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa mang tính thời sự, cấp bách. Thi hành kỷ luật trong Đảng nhằm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, giáo dục tổ chức đảng và đảng viên, xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh. Như Hội nghị Trung ương 5, khóa XIII “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “Về những điều đảng viên không được làm”...

Trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã bị kỷ luật, trong đó có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII), trong đó có 8 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng.

 Nhìn chung, việc thi hành kỷ luật Đảng đối với đảng viên vi phạm được cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp thực hiện nghiêm túc, bảo đảm công minh, chính xác, kịp thời, đúng thẩm quyền, phương châm, nguyên tắc, quy trình thủ tục theo quy định; hình thức kỷ luật tương xứng tính chất, mức độ vi phạm, có tác dụng giáo dục, răn đe, ngăn ngừa vi phạm, tăng cường giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ.

Các đảng viên bị xử lý kỷ luật đã nhận thức rõ về vi phạm của mình, chấp hành nghiêm quyết định kỷ luật, quyết tâm sửa chữa, khắc phục. Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại, hạn chế, như: Một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa thực sự quan tâm nghiên cứu, quán triệt các quy định về thi hành kỷ luật của đảng để xem xét, xử lý kỷ luật đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thẩm quyền; việc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong xem xét, xử lý kỷ luật của một số tổ chức đảng và đảng viên chưa cao; một số đảng viên có vi phạm đã được tổ chức thẩm tra, xác minh làm rõ nhưng vẫn quanh co, thiếu tính tự giác; việc thi hành kỷ luật về chính quyền, đoàn thể trong một số trường hợp còn chậm, chưa đồng bộ./.

TỰ DO TÔN GIÁO NHƯNG KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ ĐỨNG NGOÀI PHÁP LUẬT


Nước ta là quốc gia đa tôn giáo, hiện nay có 06 tôn giáo lớn là: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo; trong đó, Công giáo có hơn 7 triệu tín đồ, 47 Giám mục, hơn 6000 linh mục; khoảng 200 dòng tu, với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ, hơn 10.000 nhà thờ. Thiên Chúa giáo tồn tại trên đất nước ta gần 5 thế kỷ; trong khi đó đất nước ta có lịch sử lập quốc gần 5.000 năm (2.879 trước Công nguyên); nghĩa là, trước khi người Việt Nam bắt đầu theo tôn giáo nào đó thì trước tiên họ phải có cội nguồn, có tổ tiên, có lịch sử và tất cả người Việt đều là cháu Hồng, con Lạc dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo; có đạo hay không có đạo cũng đều là người Việt Nam, là cây chung gốc, là con một nhà. Quan điểm, đường lối, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật; các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được phát huy. Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế.

Bên cạnh những điều hết sức tốt đẹp đó; hiện nay một số lượng không nhỏ  các trang mạng xã hội của nhiều tổ chức, hội nhóm phản động lưu vong được chúng huy động để tuyên truyền bóp méo, xuyên tạc tình hình nhằm chống phá Việt Nam. Đặc biệt, ngày 02/10/2022 trên trang facebook Chân Trời Mới Media, đối tượng Phan Nhân Quyền đã phát tán bài viết “Đàn áp Công giáo kiểu mới của nhà cầm quyền Việt Nam”; đối tượng Lê Quốc Quân phát tán bài “Thanh niên Công giáo đi về đâu”, nội dung xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, chúng vu cáo chính quyền nước ta tăng cường “đàn áp” nhiều chức sắc trong Công giáo, kêu gọi các tổ chức, cộng đồng quốc tế can thiệp, đồng thời chúng kích động tín đồ trong nước đấu tranh vì “tự do tôn giáo”. Có thể thấy, các thế lực thù địch không từ bất cứ âm mưu, thủ đoạn nào nhằm chống phá Việt Nam trên mọi lĩnh vực; chúng lấy danh nghĩa tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước ta.

Trong quá trình thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá nước ta các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước luôn chú ý lợi dụng vấn đề tôn giáo, coi đây là một trong những mũi tiến công chủ đạo nhằm thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Thời gian tới để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, cấp ủy, chỉ huy các cấp, các tổ chức cần tăng cường công tác tuyền truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo và âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Đảng, Nhà nước để cán bộ, đảng viên và quần chúng nâng cao cảnh giác, tuân thủ nghiêm pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo cũng như quy định khác liên quan. Kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước. Trong đó, cần tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vốn ngày càng phức tạp và cam go hiện nay./.             

NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN PHỦ NHẬN ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 

Hiện nay, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta đang chủ trương cải cách, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục và đào tạo, các thế lực thù địch, phản động và chống đối thường xuyên đưa ra các quan điểm sai trái, xuyên tạc và phủ nhận về chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục. Bên cạnh các tài liệu, văn bản phát tán trái phép, họ đã tận dụng triệt để sự phát triển của công nghệ số mà điển hình là dùng Internet để chống phá. Thông qua một số website, các mạng xã hội, các ứng dụng (app) chạy trên nền tảng điện thoại thông minh…, các thế lực thù địch đã tăng cường xuyên tạc, bóp méo về đường lối, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Có thể nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái xuyên tạc và phủ nhận về đường lối, chính sách phát triển giáo dục qua các nhóm vấn đề sau:

Một là, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về giáo dục và đào tạo. Một số yếu kém trong giáo dục và đào tạo được họ khai thác triệt để, cho rằng đó là do lỗi của sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Ở đây họ chỉ nhìn thấy lỗi, thấy khuyết điểm mà không hề thấy những thành quả to lớn của giáo dục đã đạt được, những thành quả đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, họ còn xuyên tạc là do thể chế chính trị tác động, giáo dục nặng về chính trị, tư tưởng cho nên chương trình, nội dung nặng nề và họ đòi bỏ phần giáo dục lý luận chính trị. Cá biệt có trường hợp lợi dụng vài ba vụ việc đơn lẻ xảy ra trong hoạt động giáo dục để xuyên tạc mục tiêu, bản chất tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Ví như họ coi ngành giáo dục là “ngành ăn mày xã hội”, viễn cảnh giáo dục Việt Nam như một bức màn “màu đen xám xịt”, đó là “nền giáo dục ngu dân do độc đảng cai trị”. Thực chất của khuynh hướng này là phi chính trị hóa giáo dục dẫn đến xóa bỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng về giáo dục và cuối cùng làm chệch hướng mục tiêu lý tưởng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, bất cứ nền giáo dục nào cũng đều phải hướng đến mục tiêu đào tạo ra những thế hệ nguồn nhân lực có lý tưởng, biết vì dân tộc, vì quốc gia mình trên cơ sở nắm vững tri thức khoa học của nhân loại. Ở nước ta, trong thời gian vừa qua, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, học sinh phải chuyển sang học trực tuyến, học trên truyền hình trên diện rộng, trong thời gian dài. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Đảng, Nhà nước, giáo dục nước ta đã đạt được nhiều kết quả nổi bật như: hoàn thành và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục; đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, trọng tâm là kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng; chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên; tự chủ đại học được đẩy mạnh, thứ hạng đại học Việt Nam tăng cao; tăng cường giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Lần đầu tiên trong một nhiệm kỳ, ngành Giáo dục có 2 dự án luật được Quốc hội thông qua là Luật Giáo dục Đại học sửa đổi 2018 và Luật Giáo dục 2019. Toàn ngành đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi (năm 2015 mới có 32/63 tỉnh/thành phố); duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, trung học cơ sở.

Hai là, thổi phồng một số hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong giáo dục, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào giáo dục nước nhà, cũng là giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Chúng thổi phồng một số hạn chế của nền giáo dục nước ta hiện nay như: chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế về giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng sống cho học sinh; tình trạng thiếu thốn lạc hậu cơ sở vật chất thiết bị trường học; hiện tượng dạy thêm học thêm tràn lan, thu chi không đúng quy định, sổ sách của giáo viên quá nhiều, thiếu quan tâm giáo dục ý thức tự quản, lao động vệ sinh, tự phục vụ trong nhà trường vẫn chưa được khắc phục triệt để; tình trạng bạo lực học đường, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận giáo viên vẫn còn tồn tại ở các cấp học, bậc học... Trong khi nhiều cơ quan báo chí, nhiều luật sư, nhiều nhà giáo lên tiếng kịp thời, phân tích thấu đáo, bình luận có lý, có tình nhằm giúp công luận có một cái nhìn đúng đắn, khách quan về vụ việc, thì đáng tiếc vẫn có những ý kiến nhìn nhận vấn đề mang nặng tính áp đặt chủ quan, thiếu thiện chí, thiếu nhân văn, thậm chí đánh đồng hiện tượng với bản chất theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, từ đó có những liên tưởng, suy diễn không đúng mực về nhà giáo, về ngành giáo dục Việt Nam. Hiện nay, cả hệ thống chính trị cũng như ngành giáo dục đang đổi mới tự làm lành mạnh, trong sạch bên trong; quá trình này tất yếu phải loại bỏ những yếu tố tiêu cực, cản trở sự phát triển, đương nhiên những cái đó cần được lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc lên án này không được quy chụp cho cả hệ thống chính trị và ngành giáo dục, không được xuyên tạc từ một vài hiện tượng để đi đến kết luận bản chất. Hiện tượng tiêu cực trong giáo dục có ở mọi quốc gia, mọi nền giáo dục, ngay ở các nước phương Tây và Mỹ cũng không tránh được những hiện tượng này. Việc vi phạm pháp luật trong tuyển sinh ở một số địa phương vừa qua tại các tỉnh phía Bắc như: Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn đã có pháp luật giải quyết, không được nhân đó bôi nhọ thanh danh của một số đồng chí lãnh đạo, vơ thêm các địa phương khác đang rất nghiêm túc, rất minh bạch trong công tác này. Thực tế cho thấy, sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, giáo dục và đào tạo nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng từng bước được nâng lên, hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Vai trò, vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học trong hệ thống dần được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện, hệ thống chương trình đã được đổi mới, chú trọng phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh; phương pháp giảng dậy theo hướng tích cực cũng được chú trọng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh… Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế các khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giáo dục và đào tạo. Một trong những thành tựu lớn nhất trong hơn 30 năm đổi mới được cộng đồng quốc tế ghi nhận là nền giáo dục Việt Nam có sự phát triển cả về lượng và chất. Chúng ta không chỉ hoàn thành mục tiêu đưa hầu hết trẻ em đúng độ tuổi được đến trường học tập và đến nay cơ bản hoàn thành phổ cập trung học cơ sở ở khắp các địa phương trong cả nước, mà chất lượng giáo dục cũng ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực ở tất cả đối tượng học sinh và các cấp học, bậc học. Điều này được bà Irina Bokova, Tổng giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn nhận trong chuyến thăm Việt Nam vào dịp tháng 8-2017: “Trong lần thứ ba đến Việt Nam, tôi thấy Việt Nam có nhiều thay đổi, nhất là sự phát triển tích cực về kinh tế cũng như chất lượng giáo dục, trong đó có thành tựu về đào tạo giáo viên và thúc đẩy sự công bằng, bình đẳng về giáo dục”.

Ba là, sùng ngoại, bài nội trong vấn đề giáo dục, một số người chưa biết giáo dục các nước như thế nào, nhưng lại nức tiếng khen họ và chê bai nền giáo dục nước nhà. Một số khác cố gắng dành dụm để cho con mình ra nước ngoài học bằng được để mong con mình hơn con người; cứ tưởng học được như vậy là tài và nói xấu, chê bai giáo dục nước nhà, cho là lạc hậu, yếu kém; học xong không trở về quê hương để phục vụ, đóng góp sáng kiến cho dân tộc phát triển. Giáo dục nước ngoài mặt này, mặt khác tiến bộ khi chúng ta nhìn vào, nhưng chưa chắc đã mang lại hiệu quả trong điều kiện cụ thể của nước ta, cho nên chúng ta chỉ có thể tham khảo, tiếp thu những điểm, những cách làm xét thấy phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta không đóng cửa mà sẳn sàng giao lưu với các nền giáo dục khác, nhưng cũng không thái quá trong vấn đề mở cửa giáo dục. Trên thực tế cho thấy, các quốc gia đều luôn quan tâm giữ gìn, phát huy bản sắc, truyền thống của nền giáo dục nước mình. Ở Trung Quốc, Bộ trưởng giáo dục Trung Quốc Yuan Guiren nhận định các trường đại học cần tăng cường quản lý về hệ tư tưởng, đặc biệt trong sách giáo khoa, tư liệu giảng dạy và các giờ giảng. Ông khẳng định giảng đường đại học sẽ không được phép có chỗ cho “những bình luận phê phán sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc”,“chỉ trích chủ nghĩa xã hội” hay vi phạm hiến pháp pháp luật Trung Quốc và những tài liệu “cổ súy cho các giá trị phương Tây”

Bốn là, ra sức quảng bá, tô vẽ, khuếch trương nền giáo dục phương Tây và Mỹ coi đó là điểm đến lý tưởng, con đường duy nhất để thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện làm “rạng rỡ tương lai, mở mang tiền đồ của đất nước”. Nguy hiểm hơn, họ còn đòi loại bỏ các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi chương trình đào tạo; giảng viên, sinh viên phải được tự do về tư tưởng, không bị chi phối hoặc phụ thuộc vào bất cứ hệ tư tưởng nào. Như chúng ta đã biết, một trong những mục tiêu của nền giáo dục nước nhà là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam, có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng, mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức trong mục tiêu của nền giáo dục nước nhà được khẳng định và xác định khá chi tiết ở mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời đại mới. Những phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức trên đây do toàn bộ quá trình giáo dục tạo nên. V.I.Lênin đã từng cảnh báo những người cộng sản trong tác phẩm Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên như sau: “Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản, những kết luận của khoa học cộng sản, chứ không cần thấm nhuần tổng số những kiến thức mà chính bản thân chủ nghĩa cộng sản cũng là kết quả. Chủ nghĩa Mác là một thí dụ chỉ rõ rằng chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số tri thức của nhân loại”.

ĐẰNG SAU CHIÊU TRÒ “QUÂN ĐỘI CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”

 

Vin vào cớ Đảng ta tổ chức Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII bàn về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một số người kiến nghị với Đảng ta rằng: “Quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào”, “Quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức chính trị nào”; “không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” và “quân đội chỉ tuân theo pháp luật”, “phải thượng tôn pháp luật”…

Thực chất quan điểm nêu trên là biểu hiện của chiêu trò “phi chính trị hóa” quân đội vô cùng nham hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch nhằm hiện thực hóa âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; làm cho Quân đội ta bị vô hiệu hóa; Đảng, Nhà nước mất chỗ dựa vững chắc là Quân đội và Công an để dễ bề hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, có lợi cho phương Tây.

Chúng ta không chấp nhận quan điểm sai trái nêu trên bởi nó chỉ là chiêu trò “mượn giá bẻ măng”, “đục nước béo cò”, lợi dụng Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII của Đảng bàn về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đề cao vai trò của Nhà nước, hạ thấp và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; đối lập và chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân, làm cho Quân đội mất phương hướng chính trị, bị vô hiệu hóa và suy yếu sức mạnh chiến đấu, từ đó thực hiện ý đồ đen tối: Đánh mất bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”; làm cho Quân đội không còn nghĩa vụ “tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh cấp trên”; cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Qua đó, lái Quân đội ta “chệch hướng, lạc đường”, không còn là lực lượng tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 Tính phi lý của quan điểm nêu trên còn thể hiện ở việc ra sức tán dương và cổ súy cho cái gọi là “quân đội phải đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc”; “không tham gia tranh giành quyền lực nhà nước” để điều hòa mâu thuẫn, làm giảm sự căng thẳng giữa các đảng phái chính trị, tiến tới “dân sự hóa quân đội”.

Đối với Quân đội ta, việc “tung hỏa mù” như luận điểm nêu trên là chủ ý với mưu đồ: “tách” vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ra khỏi bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng; thủ tiêu bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta; đồng nhất chính trị của quân đội cách mạng với chính trị của quân đội tư sản. Cho nên, luận điểm nêu trên không chỉ sai lầm về lý luận, mà còn phản ánh sai sự thật, trái với bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là cái cớ để các thế lực thù địch xuyên tạc 78 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta.

Cần thấm nhuần sâu sắc những lời chú dẫn của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin: Giai cấp công nhân phải đứng vững trên lập trường mác xít để nhìn nhận, xem xét nguồn gốc, bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội cách mạng, không được đánh đồng quân đội cách mạng với quân đội phản cách mạng - quân đội của giai cấp tư sản. Bởi lẽ, không thể có quân đội phi chính trị, phi giai cấp, hoặc quân đội “trung lập”, “đứng ngoài chính trị”, không có “quân đội chỉ tuân theo pháp luật” thuần túy mà phải xuất phát từ nguyên tắc mác xít để thừa nhận sự thống nhất giữa tính đảng với tính khoa học.

Lịch sử giai cấp, nhà nước đã chứng minh: Bất cứ quân đội nào và chế độ xã hội nào cũng vậy, vấn đề chính trị luôn là vấn đề “gốc”, có ý nghĩa quyết định sự sống còn của quân đội, của chế độ chính trị - xã hội và vận mệnh của quốc gia - dân tộc, trước hết là nhà nước đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó. Chính trị của quân đội, về thực chất, không có gì khác là vấn đề bản chất giai cấp của quân đội. Nó trả lời cho câu hỏi: Quân đội đó do giai cấp nào đứng ra tổ chức, lãnh đạo và quân đội ấy phục vụ ai, bảo vệ quyền lợi của ai. Vì thế, Đảng và Bác Hồ luôn xác định: Phải lấy chính trị làm “gốc”; “chính trị trọng hơn quân sự”; phải thực hiện tốt quan điểm “người trước súng sau”; tuyệt đối không được để “phi chính trị hóa” quân đội.

Ai đó cho rằng “quân đội chỉ tuân theo pháp luật”, “quân đội phải trung lập, đứng ngoài chính trị” là sự cổ súy cho quân đội đứng ngoài cuộc đấu tranh giai cấp, từ bỏ chính trị trong đấu tranh cách mạng và tranh giành quyền lực nhà nước. Nếu điều ấy có thì nó chỉ có ở các đảng phái chính trị tư sản, chỉ có ở các nước tư bản.

Chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam là thực hiện chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, biểu hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, vì cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Vì lẽ đó, Quân đội ta không chỉ tuân theo Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp là tuân thủ và thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan quân đội; Luật Giáo dục Quốc phòng và An ninh cũng như các bộ luật và pháp lệnh khác. Đó là lẽ đương nhiên vì quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam đồng thời là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng trước hết, là quân nhân các mạng.

Đã là quân nhân cách mạng, nhất thiết phải phục tùng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Vì vậy, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với Quân đội là công việc song hành. Trong đó, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là yêu cầu cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.

Xem nhẹ hoặc buông lỏng vấn đề xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là một sai lầm; nó sẽ làm cho quân đội mất phương hướng, xa rời bản chất giai cấp công nhân, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; không còn là lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải kiên quyết đấu tranh bác bỏ các quan điểm sai trái, phản động, phản khoa học khi cho rằng: “Quân đội nhân dân Việt Nam phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “Quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân”, “quân đội chỉ tuân theo pháp luật”… Đã là quan điểm sai trái, đi ngược lại muc tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, thì phải đoạn tuyệt với nó, Quân đội ta không cần nó.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành gần 78 năm qua đã chứng minh: Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội ta.

Đó là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội ta. Đồng thời, thể hiện mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam và bản chất chính trị - xã hội của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ai đó đưa ra luận điểm: “quân đội chỉ tuân theo pháp luật”, “quân đội phải trung lập đứng ngoài chính trị”, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, những người có quan điểm đối lập với Đảng ta đã sai lầm. Họ cố tình làm cái việc “tách” vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ra khỏi bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Về thực chất, đó là tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, đồng nhất chính trị của Quân đội ta với chính trị của quân đội tư sản. Đó là điều vô lý, không thể chấp nhận.

Vấn đề có tính nguyên tắc không bao giờ được thay đổi, cần giữ vững, tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường; đó là: a) Không thể và không cho phép ai tách vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc ra khỏi bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, cũng như chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam; b) Không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội; c) Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; d) Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, làm cho Quân đội ta luôn “tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân”; suốt đời “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Đó là nhiệm vụ, niềm vui, lẽ sống, niềm hạnh phúc trọn vẹn, thiêng liêng của mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

ĐẤU TRANH VỚI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG


Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng Internet, các trang mạng xã hội để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, sai sự thật, bóp méo, xuyên tạc, làm lẫn lộn đúng - sai, thật - giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch; bôi nhọ, vu khống lãnh tụ, kích động bạo lực, lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin…

Song do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như tác hại của quan điểm sai trái, thù địch đối với xã hội còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn mang tính hình thức, thụ động, chưa đa dạng, phong phú về nội dung, có nơi, có lúc còn thiếu sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót; việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện ở một số nơi còn chậm, kéo dài, vượt cấp, gây bức xúc trong nhân dân… là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch với nước ta.

Thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng 2 trang mạng xã hội là Facebook và Youtube để đăng, chia sẻ những thông tin sai trái, cơ hội chính trị lên không gian mạng Internet. Thủ đoạn thường được chúng sử dụng đó là dùng những tin, bài, những hình ảnh trên các báo chí chính thống của ta ở trong nước, sau đó viết lại, chỉnh sửa thành những nội dung bịa đặt hoặc định hướng sai lệch để đăng tải. Điều này thu hút sự quan tâm của người xem, người đọc trước những thông tin có nội dung giống với các thông tin chính thống, tạo cảm giác nửa tin, nửa ngờ và nếu không tìm hiểu, nghiên cứu kỹ sẽ bị tác động xấu bởi những thông tin xuyên tạc này. Ngoài ra, các đối tượng sử dụng trang Blog để nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước, khi nó kết hợp với mạng xã hội, các bài viết trên Blog được chia sẻ lên mạng xã hội tạo sức lan tỏa lớn.

Để  đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay cần phải đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung thông tin chính thống, đảm bảo phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, tùy theo đối tượng để cung cấp, phổ biến, truyền tải. Đồng thời luôn xây dựng bản lĩnh vững vàng, có nhận thức đúng đắn, có sự suy xét khi tiếp cận những thông tin nhạy cảm, ở những thời điểm diễn ra các sự kiện mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Loại bỏ những thông tin xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch ra khỏi không gian mạng bằng cách tạo môi trường trong sạch về thông tin. Đặc biệt, các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức đoàn thể và toàn thể nhân dân cần phối hợp chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp chỉ rõ các quan điểm sai trái, vạch trần các âm mưu phản động thù địch, từng bước cô lập chúng trên mạng xã hội. Chủ động chia sẻ, lan tỏa những tin, bài, ảnh có nội dung tích cực, gương người tốt việc tốt trong học tập, công tác, lao động sản xuất, trong cuộc sống, sinh hoạt thường ngày... “lấy cái đẹp để dẹp cái xấu”. Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc, cũng là góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng.

DỰA VÀO DÂN ĐỂ XÂY DỰNG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ MỚI


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là đạo đức, văn minh, là lương tâm và trí tuệ của dân tộc. Điều đó yêu cầu toàn Đảng và từng tổ chức đảng, mỗi đảng viên của Đảng phải trong sạch, vững mạnh. Muốn vậy, phải tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ, về đạo đức và phong cách để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng mà còn là công việc, trách nhiệm của nhân dân. Nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu của Đảng, nhân dân có trọng trách to lớn là xây dựng Đảng của mình trong sạch, vững mạnh. “Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” luôn là nguyên tắc xây dựng Đảng và được khẳng định trong các cương lĩnh và nghị quyết của Đảng.

Một trong những bài học kinh nghiệm của 35 năm đổi mới đó là “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân”. Nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân trong xây dựng Đảng, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Cùng với quan điểm, đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhiều đạo luật được sửa đổi, bổ sung để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; sự ra đời của Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy định về việc đảng viên tham gia sinh hoạt ở khu dân cư, Quy định về việc MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền… đã tăng thêm cơ chế, điều kiện để nhân dân góp ý kiến để xây dựng và bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng; chính sách và pháp luật của Nhà nước; tham gia giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền trong việc thực hiện chủ trương, chính sách và pháp luật, giám sát đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng, Quy định về những điều đảng viên không được làm, giám sát việc thực hiện đạo đức và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước.

Các hình thức góp ý với Đảng và giám sát cán bộ, đảng viên ngày càng được quan tâm. Đảng đã tổ chức nhiều cuộc lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân cả nước góp ý vào dự thảo Cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội, dự thảo sửa đổi Hiến pháp, dự thảo các đạo luật có liên quan, tác động nhiều đến cuộc sống nhân dân. Qua đó huy động trí tuệ toàn dân để xây dựng, hoàn thiện các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Nhiều địa phương đã tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú (thôn, xóm, tổ dân phố) đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên theo định kỳ. Cùng với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, việc lấy phiếu tín nhiệm trong Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân góp phần để nhân dân, đại biểu dân cử giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo.

Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thời gian qua còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, nhất là trong tình hình hiện nay. Ở một số nơi vẫn còn khiếu kiện đông người, người lao động ngừng việc tập thể không đúng pháp luật; ở cơ sở, người dân còn né tránh, e ngại trong việc góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên, không dám tố giác tham nhũng, tiêu cực. Mặt khác, một số cấp ủy đảng và chính quyền nhận thức vấn đề này chưa sâu sắc và đầy đủ, thậm chí có nơi còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, ngại tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, thiếu trách nhiệm trong giải quyết các nguyện vọng, bức xúc của người dân. Đồng thời, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

CÔNG TÁC CÁN BỘ TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP


Theo V.I. Lênin: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. ...đó là then chốt; nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Những lời của Bác luôn có giá trị đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay.

Quả thật, cốt lõi của công tác cán bộ chính là con người, có tài mà không có đức sẽ vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó; nếu đặt đúng vai trò vào người có trách nhiệm và giỏi chuyên môn, có năng khiếu đặc biệt ở một lĩnh vực, thì một người sẽ phát huy, khơi dậy được năng lực quản lý, chuyên môn, sức sáng tạo để tạo ra năng suất lao động, hiệu quả công việc cao gấp nhiều lần.

Thế hệ tôi đã trải qua, được nghe hoặc chứng kiến những bài toán thực tiễn của cách mạng Việt Nam đặt ra và cách dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ những ngày đầu bước lên con tàu của Pháp để tìm đường cứu nước, việc chọn đi đến đâu, gặp những ai và sẽ làm gì, dường như đã có trong tính toán của Bác Hồ. Ði đến một nước, Bác lại có thêm những người bạn, người đồng hành, để về sau này, khi kháng chiến thành công, người ta vẫn nhắc đến những câu chuyện về tình bạn xuyên quốc gia của Người. Quan hệ cá nhân của Bác Hồ với những người bạn quốc tế đã góp phần đem lại uy tín cũng như sự giúp đỡ to lớn cho cách mạng Việt Nam, đó là bài học quý giá không bao giờ cũ.

Khi về Việt Nam, nhiều người vẫn thắc mắc, tại sao Bác Hồ lại lựa chọn Võ Nguyên Giáp, một nhà sử học, một người nghiên cứu để hoạt động quân sự. 13 giờ ngày 28-5-1948, lễ phong quân hàm cấp tướng đã được Chính phủ tổ chức trọng thể tại một hội trường mới dựng bên dòng suối ở cạnh đồi Nà Lọm, Phú Ðình, Ðịnh Hóa, Thái Nguyên (đồi Nà Lọm nay được gọi là đồi Phong Tướng) cho một số cán bộ quân đội. Ðồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Ðại tướng. Sau khi sự kiện lễ phong quân hàm cấp tướng được công bố trên Ðài Tiếng nói Việt Nam, một phóng viên phương Tây hỏi Bác việc phong cấp này dựa theo những tiêu chuẩn nào, Bác trả lời: Ðánh thắng Ðại tá phong Ðại tá; đánh thắng Thiếu tướng phong Thiếu tướng; thắng Trung tướng phong Trung tướng; thắng Ðại tướng phong Ðại tướng. Ngược dòng lịch sử rất đáng suy ngẫm, vì sao Bác Hồ lại vận động, thuyết phục được nhiều trí thức lớn người Việt từ các nước phương Tây trở về phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc sau Cách mạng Tháng Tám, bất chấp bao khó khăn, thiếu thốn, nguy hiểm, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tiêu biểu như trường hợp nhà khoa học Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ, Anh hùng Lao động Trần Ðại Nghĩa… Quan điểm đó của Bác Hồ dường như đã là kim chỉ nam cho công tác cán bộ, nghĩa là: Hãy chọn đúng người cho đúng nhiệm vụ, để cán bộ đó phát huy được tối đa khả năng của mình. 


QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM LÀ RẤT RÕ RÀNG VỀ XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE


Ngay từ khi xảy ra xung đột Nga - Ukraine, trên các diễn đàn quốc tế và phương tiện thông tin đại chúng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ quan điểm chính thức của mình. Thế nhưng, trên internet, mạng xã hội, thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị lại cố tình đưa ra những suy diễn xuyên tạc. Đây là chiêu trò nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín và phá hoại quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Thời gian qua, thế giới lại được phen dậy sóng trước những căng thẳng giữa Nga và Ukraine mà đỉnh điểm là khi Tổng thống Nga Putin phát động chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine (ngày 24/02/2022). Lợi dụng tình hình đó, ngay lập tức, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị chống đối lại “thừa nước đục thả câu”, “bới lông tìm vết”,… tung ra những luận điệu xuyên tạc, suy diễn, hướng lái dư luận theo hướng tiêu cực,… nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, dù cho ngay sau khi sự việc xảy ra, Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức về xung đột Nga và Ukraine.

Cần khẳng định rõ: đây là một trong những chiêu bài “cũ rích” mà các thế lực thù địch vẫn thường sử dụng. Trên các trang mạng, diễn đàn, tài khoản mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân thù địch, chống đối liên tục đăng tải tin, bài có nội dung phê phán, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam trong quan điểm, cách nhìn nhận, ứng xử trước các vấn đề liên quan đến xung đột giữa Nga và Ukraine,… từ đó hướng dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam về vấn đề xung đột giữa Nga - Ukraine

Trước hếtViệt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm nhất quán đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine. Ngày 01/3/2022, phát biểu tại phiên họp khẩn cấp lần thứ XI của Đại hội đồng Liên hợp quốc thảo luận về tình hình Ukraine, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng phái Đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã nhấn mạnh rằng: “Lịch sử của chính dân tộc chúng tôi hứng chịu các cuộc chiến tranh đã nhiều lần chỉ ra rằng, cuộc chiến tranh và xung đột đến tận ngày nay thường bắt nguồn từ các học thuyết lỗi thời đề cao chính trị cường quyền, tham vọng thống trị áp đặt và sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Một số xung đột vẫn còn gắn liền với những yếu tố lịch sử, ngộ nhận và hiểu lầm. Với trải nghiệm của chính mình, Việt Nam thấu hiểu rằng chiến tranh và xung đột khi nổ ra chỉ gây ra đau khổ sâu sắc cho người dân và hậu quả nghiêm trọng đối với nhiều khía cạnh trong đời sống của các quốc gia có liên quan trực tiếp cũng như của các quốc gia khác”. Chính vì thế, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam không muốn đất nước phải chịu cảnh chiến tranh và cũng không bao giờ muốn chiến tranh xảy ra với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Việt Nam liên tục phát đi “thông điệp” thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với cuộc xung đột tại Ukraine. Đồng thời, tích cực kêu gọi các bên liên quan hết sức kiềm chế, tránh những động thái gây bất ổn cho tình hình chính trị thế giới, ảnh hưởng xấu đến hòa bình, ổn định toàn cầu; đe dọa nghiêm trọng đến sinh mệnh của binh lính và người dân vô tội ở các nơi xảy ra xung đột. Như vậy, quan điểm của Việt Nam là rất rõ ràng, thẳng thắn, mong muốn hai bên hướng về hòa bình và cuộc sống an toàn của người dân để nối lại đàm phán, chấm dứt leo thang căng thẳng.

Thứ haiViệt Nam nêu rõ tầm quan trọng của việc tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc. Mọi tranh chấp quốc tế cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm các nguyên tắc về tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Đây là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo, điều hành, tổ chức và quản lý công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam luôn kiên định quan điểm “Bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Thứ baViệt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại trên tinh thần Nhân dân Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.

QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM LÀ RẤT RÕ RÀNG


Đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine, Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức của mình. Ngày 1/3, phát biểu khi Đại hội đồng LHQ tổ chức phiên họp khẩn cấp lần thứ XI thảo luận về tình hình Ukraine Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh: “Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia.

Ngày 3/3, tại họp báo thường kỳ, trả lời báo chí về việc bỏ phiếu của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã khẳng định: “Quan điểm của chúng tôi là Việt Nam luôn theo dõi sát sao và hết sức quan ngại về tình hình Ukraine”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh: “Chúng tôi cho rằng, ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đàm phán đối thoại trên tất cả các kênh để đạt được các giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên trên cơ sở phù hợp với Hiến chương LHQ và nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.

Như vậy, xuyên suốt trong các tuyên bố, phát ngôn, quan điểm nhất quán của Việt Nam là kêu gọi chấm dứt hành động sử dụng vũ lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các bất đồng. Kể từ khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra cho đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ phát ngôn và hành động nào của Việt Nam đề cập đến việc ủng hộ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine và Việt Nam cũng không “thiên vị” hay đứng về bất kỳ một bên nào xoay quanh xung đột giữa Nga và Ukraine.

Hiến pháp năm 2013 và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) của Việt Nam đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại;

Về chính sách quốc phòng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ, Việt Nam giữ vững nguyên tắc 4 không: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Để giành độc lập dân tộc và tự do, bảo vệ nền hòa bình của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu. Bằng các cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất qua nhiều thế hệ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, quyền được tự quyết vận mệnh của mình. Bởi vậy, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam luôn mong muốn xây dựng một môi trường hòa bình, hiểu biết, đoàn kết và yêu thương nhau, cùng xây dựng thế giới ngày càng tốt đẹp.

Đối với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là đối tác quan trọng. Do đó, Việt Nam kêu gọi Nga và Ukraine giảm căng thẳng, ngừng bắn, bảo đảm an ninh an toàn, nhu cầu thiết yếu của người dân, bảo đảm an ninh an toàn cho cộng đồng người nước ngoài đang sống tại Ukraine, trong đó có người Việt Nam. Việt Nam luôn khẳng định lập trường không thay đổi, đó là Việt Nam không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn đứng về lẽ phải, về công lý, luật pháp quốc tế.

HỘI NGHỊ LẦN THỨ VI BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP

 

Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ ngày 4-10 đến ngày 7-10, tại Thủ đô Hà Nội. Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thảo luận và cho ý kiến về các nội dung: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 và dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2021, dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2022 - 2024; chủ trương lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII; kết quả công tác phòng, chống dịch Covid-19 và quan điểm, chủ trương về phòng, chống dịch trong tình hình mới; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sửa đổi, bổ sung quy định về những điều đảng viên không được làm; và một số vấn đề quan trọng khác.

Trên các trang facebook Việt Tân tán phát nhiều bài viết xuyên tạc kết quả thành công của Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; phủ nhận những thành quả đạt được trong công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Chúng ra sức kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa dảng đối lập ở Việt Nam. Những luận điểm đó không mới nhưng chúng vẫn kích động, nói xấu chế độ vì vậy.

         

Mỗi chúng ta cần nghiên cứu, lĩnh hội tinh thần và kết quả hội nghị Trung ương lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, làm cơ sở để tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến các cán bộ, đảng viên, nhân dân tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, phát huy những kết quả quan trọng, toàn diện đã đạt được trong 9 tháng qua; nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.

KỲ VỌNG VÀO THÀNH CÔNG HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6 KHÓA XIII


Sau 7 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao với những nội dung trên và nhấn mạnh nội dung “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Hội nghị Trung ương lần này đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết mới về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Trong quá trình này, cần kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh phân công, phối hợp, phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cơ chế, chính sách, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng.

Quan tâm, theo dõi Hội nghị lần thứ sáu, nhất là bài phát biểu khai mạc và bế mạc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiều cán bộ, đảng viên, trí thức và đông đảo các tầng lớp nhân dân nhận xét: Hội nghị đã bàn thảo, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của Đảng, của đất nước. Đặc biệt, Hội nghị đã tiếp tục nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và chống tham nhũng, tiêu cực.

Theo đó, để đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, chúng ta cần coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh, đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nói, phải xem xét thấu đáo, kỹ lưỡng ngay từ khi lựa chọn, bố trí cán bộ.

Nhân dân rất quan tâm, chú ý và đặt nhiều kỳ vọng vào quyết tâm, tinh thần đổi mới của Đảng. Có kết quả tốt sẽ củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nhưng chủ trương, Nghị quyết đạt kết quả hay không, thì không chỉ bằng lời nói hay, mà phải bằng quyết tâm “6 dám”: Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định thành công của Hội nghị Trung ương 6 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì Hội nghị diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cả nước đang nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi, khắc phục, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2022, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn trong năm 2023 và các năm tiếp theo./.

LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ, GÂY NHIỄU CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA

 

Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế…góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Vị thế và uy tín của nước ta ngày càng được các tổ chức và bạn bè quốc tế đánh giá ghi nhận. Gần đây nhất trong những thời điểm khó khăn của dịch bệnh Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, Việt Nam đã hoàn thành chương trình nước Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Chủ tịch ủy viên không thường trực HĐBA Liên hợp quốc nhiệm kỷ 2020 – 2021. Đặc biệt, ngày 11/10/2022 vừa qua tại trụ sở LHQ ở New York, Việt Nam và 13 quốc gia khác trúng cử Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023 – 2025.

Ấy vậy, trên các bài viết phát tán của các thế lực phản động lại cho rằng Việt Nam không có chứng kiến trên các vấn đề sai trái của thế giới nhất là tình hình xung đột quân sự ở Ucraina và Nga. Trang blog Việt Nam Thời Báo đối tượng Nguyễn Huỳnh tán phát bài “Việt Nam mềm mỏng lên tiếng việc Nga sáp nhập 4 tỉnh của Ucraina. Đây là luận điệu sai trái không hề ngoài mục đích đánh lận con đen, xuyên tạc sự thật hòng làm cho thế giới nghi kỵ với Việt Nam, chia rẽ quan hệ Việt Nam với các nước; làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Những giọng điệu ấy dù có xảo quyệt, tinh vi đến đâu cũng không thể xuyên tạc được đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nược ta. Đó là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng hợp tác cùng có lợi trên cơ sở Hiến chương LHQ và các nguyên tắc cơ bản của Luật pháp Quôc tế.

Vì vậy, để không bị mắc mưu, dẫn đến tiếp tay cho chúng, mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần đề cao cảnh giác, chủ động, phương tiện, kiên quyết đấu tranh phản bác loại bỏ những luận điệu ấy ra khỏi đời sống chính trị nước ta./.

 

QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM LÀ RẤT RÕ RÀNG VỀ XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE

Ngay từ khi xảy ra xung đột Nga - Ukraine, trên các diễn đàn quốc tế và phương tiện thông tin đại chúng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ quan điểm chính thức của mình. Thế nhưng, trên internet, mạng xã hội, thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị lại cố tình đưa ra những suy diễn xuyên tạc. Đây là chiêu trò nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín và phá hoại quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Thời gian qua, thế giới lại được phen dậy sóng trước những căng thẳng giữa Nga và Ukraine mà đỉnh điểm là khi Tổng thống Nga Putin phát động chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraine (ngày 24/02/2022). Lợi dụng tình hình đó, ngay lập tức, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị chống đối lại “thừa nước đục thả câu”, “bới lông tìm vết”,… tung ra những luận điệu xuyên tạc, suy diễn, hướng lái dư luận theo hướng tiêu cực,… nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, dù cho ngay sau khi sự việc xảy ra, Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức về xung đột Nga và Ukraine.

Cần khẳng định rõ: đây là một trong những chiêu bài “cũ rích” mà các thế lực thù địch vẫn thường sử dụng. Trên các trang mạng, diễn đàn, tài khoản mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân thù địch, chống đối liên tục đăng tải tin, bài có nội dung phê phán, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam trong quan điểm, cách nhìn nhận, ứng xử trước các vấn đề liên quan đến xung đột giữa Nga và Ukraine,… từ đó hướng dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam về vấn đề xung đột giữa Nga - Ukraine

Trước hếtViệt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm nhất quán đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine. Ngày 01/3/2022, phát biểu tại phiên họp khẩn cấp lần thứ XI của Đại hội đồng Liên hợp quốc thảo luận về tình hình Ukraine, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng phái Đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đã nhấn mạnh rằng: “Lịch sử của chính dân tộc chúng tôi hứng chịu các cuộc chiến tranh đã nhiều lần chỉ ra rằng, cuộc chiến tranh và xung đột đến tận ngày nay thường bắt nguồn từ các học thuyết lỗi thời đề cao chính trị cường quyền, tham vọng thống trị áp đặt và sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Một số xung đột vẫn còn gắn liền với những yếu tố lịch sử, ngộ nhận và hiểu lầm. Với trải nghiệm của chính mình, Việt Nam thấu hiểu rằng chiến tranh và xung đột khi nổ ra chỉ gây ra đau khổ sâu sắc cho người dân và hậu quả nghiêm trọng đối với nhiều khía cạnh trong đời sống của các quốc gia có liên quan trực tiếp cũng như của các quốc gia khác”. Chính vì thế, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam không muốn đất nước phải chịu cảnh chiến tranh và cũng không bao giờ muốn chiến tranh xảy ra với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Việt Nam liên tục phát đi “thông điệp” thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với cuộc xung đột tại Ukraine. Đồng thời, tích cực kêu gọi các bên liên quan hết sức kiềm chế, tránh những động thái gây bất ổn cho tình hình chính trị thế giới, ảnh hưởng xấu đến hòa bình, ổn định toàn cầu; đe dọa nghiêm trọng đến sinh mệnh của binh lính và người dân vô tội ở các nơi xảy ra xung đột. Như vậy, quan điểm của Việt Nam là rất rõ ràng, thẳng thắn, mong muốn hai bên hướng về hòa bình và cuộc sống an toàn của người dân để nối lại đàm phán, chấm dứt leo thang căng thẳng.

Thứ haiViệt Nam nêu rõ tầm quan trọng của việc tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc. Mọi tranh chấp quốc tế cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm các nguyên tắc về tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Đây là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo, điều hành, tổ chức và quản lý công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam luôn kiên định quan điểm “Bốn không”: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Thứ baViệt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại trên tinh thần Nhân dân Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.

QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM LÀ RẤT RÕ RÀNG


Đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine, Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức của mình. Ngày 1/3, phát biểu khi Đại hội đồng LHQ tổ chức phiên họp khẩn cấp lần thứ XI thảo luận về tình hình Ukraine Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh: “Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia.

Ngày 3/3, tại họp báo thường kỳ, trả lời báo chí về việc bỏ phiếu của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã khẳng định: “Quan điểm của chúng tôi là Việt Nam luôn theo dõi sát sao và hết sức quan ngại về tình hình Ukraine”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh: “Chúng tôi cho rằng, ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đàm phán đối thoại trên tất cả các kênh để đạt được các giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên trên cơ sở phù hợp với Hiến chương LHQ và nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.

Như vậy, xuyên suốt trong các tuyên bố, phát ngôn, quan điểm nhất quán của Việt Nam là kêu gọi chấm dứt hành động sử dụng vũ lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các bất đồng. Kể từ khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra cho đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ phát ngôn và hành động nào của Việt Nam đề cập đến việc ủng hộ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine và Việt Nam cũng không “thiên vị” hay đứng về bất kỳ một bên nào xoay quanh xung đột giữa Nga và Ukraine.

Hiến pháp năm 2013 và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) của Việt Nam đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại;

Về chính sách quốc phòng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ, Việt Nam giữ vững nguyên tắc 4 không: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Để giành độc lập dân tộc và tự do, bảo vệ nền hòa bình của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu. Bằng các cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất qua nhiều thế hệ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, quyền được tự quyết vận mệnh của mình. Bởi vậy, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam luôn mong muốn xây dựng một môi trường hòa bình, hiểu biết, đoàn kết và yêu thương nhau, cùng xây dựng thế giới ngày càng tốt đẹp.

Đối với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là đối tác quan trọng. Do đó, Việt Nam kêu gọi Nga và Ukraine giảm căng thẳng, ngừng bắn, bảo đảm an ninh an toàn, nhu cầu thiết yếu của người dân, bảo đảm an ninh an toàn cho cộng đồng người nước ngoài đang sống tại Ukraine, trong đó có người Việt Nam. Việt Nam luôn khẳng định lập trường không thay đổi, đó là Việt Nam không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn đứng về lẽ phải, về công lý, luật pháp quốc tế.

HỘI NGHỊ LẦN THỨ VI BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP


Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ ngày 4-10 đến ngày 7-10, tại Thủ đô Hà Nội. Tại hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thảo luận và cho ý kiến về các nội dung: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 và dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2022; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2021, dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 và Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2022 - 2024; chủ trương lùi thời điểm thực hiện cải cách chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII; kết quả công tác phòng, chống dịch Covid-19 và quan điểm, chủ trương về phòng, chống dịch trong tình hình mới; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sửa đổi, bổ sung quy định về những điều đảng viên không được làm; và một số vấn đề quan trọng khác.

Trên các trang facebook Việt Tân tán phát nhiều bài viết xuyên tạc kết quả thành công của Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; phủ nhận những thành quả đạt được trong công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Chúng ra sức kêu gọi thực hiện đa nguyên chính trị, đa dảng đối lập ở Việt Nam. Những luận điểm đó không mới nhưng chúng vẫn kích động, nói xấu chế độ vì vậy.

         

Mỗi chúng ta cần nghiên cứu, lĩnh hội tinh thần và kết quả hội nghị Trung ương lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, làm cơ sở để tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến các cán bộ, đảng viên, nhân dân tăng cường đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, phát huy những kết quả quan trọng, toàn diện đã đạt được trong 9 tháng qua; nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra.

KỲ VỌNG VÀO THÀNH CÔNG HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6 KHÓA XIII


Sau 7 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao với những nội dung trên và nhấn mạnh nội dung “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”, coi đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Hội nghị Trung ương lần này đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết mới về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Trong quá trình này, cần kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh phân công, phối hợp, phân cấp, phân quyền, gắn với nêu cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; giữ vững sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; bảo đảm nguyên tắc quyền lực đi đôi với trách nhiệm, mọi cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, cơ chế, chính sách, nguyên tắc và kỷ luật của Đảng.

Quan tâm, theo dõi Hội nghị lần thứ sáu, nhất là bài phát biểu khai mạc và bế mạc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhiều cán bộ, đảng viên, trí thức và đông đảo các tầng lớp nhân dân nhận xét: Hội nghị đã bàn thảo, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của Đảng, của đất nước. Đặc biệt, Hội nghị đã tiếp tục nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và chống tham nhũng, tiêu cực.

Theo đó, để đổi mới có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, chúng ta cần coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh, đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nói, phải xem xét thấu đáo, kỹ lưỡng ngay từ khi lựa chọn, bố trí cán bộ.

Nhân dân rất quan tâm, chú ý và đặt nhiều kỳ vọng vào quyết tâm, tinh thần đổi mới của Đảng. Có kết quả tốt sẽ củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nhưng chủ trương, Nghị quyết đạt kết quả hay không, thì không chỉ bằng lời nói hay, mà phải bằng quyết tâm “6 dám”: Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định thành công của Hội nghị Trung ương 6 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì Hội nghị diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; cả nước đang nỗ lực phấn đấu, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi, khắc phục, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho năm 2022, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn trong năm 2023 và các năm tiếp theo./.