Các thế lực phản động, chống cộng sản đưa
ra luận điệu xuyên tạc cho rằng: vô thần và hữu thần như nước với lửa, chủ
nghĩa xã hội không tương dung với tôn giáo, chủ nghĩa xã hội kìm hãm, hạn chế sự
phát triển của tôn giáo,... Vậy sự thật diễn ra như thế nào?
C.Mác từng khẳng định, “Đặc quyền tín ngưỡng
là một quyền phổ biến của con người”. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Mặc dù thế
giới quan duy vật mácxít và thế giới quan duy tâm tôn giáo là đối lập nhau,
nhưng trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxít không bao giờ
có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp
của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ xã
hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của tất
cả mọi người.
Chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
minh chứng hùng hồn cho sự tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và không tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, tạo mọi điều kiện cho tôn giáo hoạt
động đúng tôn chỉ, mục đích.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự tiếp thu trí tuệ
của nhân loại và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn
giáo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; hơn thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bổ
sung, nâng tầm ý nghĩa của tự do tín ngưỡng, tôn giáo khi đặt nó trong mối quan
hệ gắn bó với độc lập dân tộc “nước có độc lập thì tôn giáo mới được tự do”;
Người cũng chủ trương phát huy các giá trị đạo đức của tôn giáo. Năm 1945, chỉ
một ngày sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định việc thực hiện chính sách tôn trọng tự
do tôn giáo, đoàn kết lương giáo là một trong sáu vấn đề cấp bách nhất cần giải
quyết: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn
kết”. Theo Hồ Chí Minh, các tôn giáo khác nhau về giáo lý, giáo luật nhưng đều
có điểm chung là đề cao tính nhân đạo, tính hướng thiện của con người. Người viết:
"Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi.
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa.
Thứ hai, pháp luật Việt Nam tương thích với pháp luật quốc tế và luôn đề cao quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013: “1. Mọi người có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo
bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Chương 2, Điều 24). Hiến pháp năm
2013 cũng nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo
hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 6, Chương II Luật tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2016 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào...”; đồng thời Luật mở rộng phạm vi chủ thể có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ “công dân” thành “mọi người”, Luật đã thể hiện
đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người theo tinh thần
Hiến pháp năm 2013.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước Việt Nam không ngừng bổ sung, hoàn thiện các chủ trương,
chính sách về tôn giáo.
Nghị quyết 24-NQ/TW (năm 1990) được xem là
dấu mốc thể hiện rõ nhất quan điểm mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn
giáo, trong đó có ba luận điểm quan trọng: Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân và là vấn đề còn tồn tại lâu dài; đạo đức tôn giáo có nhiều điều
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; nội dung cốt lõi của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng. Đây là cách tiếp cận khoa học dưới góc
nhìn đa chiều về tôn giáo, khắc phục được cách nhìn mặc cảm, nặng về yếu tố
chính trị đối với tôn giáo. Sau đó, Nghị quyết 25-NQ/TW (năm 2003) đã tổng kết
và phát triển tư duy lý luận của Đảng về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo
là công tác vận động quần chúng; công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị;...
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng đã xác định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn
giáo chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”,... Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển
của đất nước”. Như vậy, tại Đại hội XIII, Đảng đã chính thức xác định tôn giáo
là nguồn lực xã hội cần được phát huy.
Có thể nói, các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu
tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, làm cho tình hình tôn giáo ở nước ta có chuyển
biến theo hướng tích cực, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển đất
nước.
Thứ tư, chế độ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho
tôn giáo phát triển.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam được bảo đảm trên thực tế. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của mọi người, số lượng tín đồ cùng chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam
không ngừng tăng lên: Năm 1985, số lượng tín đồ là 14 triệu, số lượng chức sắc,
nhà tu hành là 35 nghìn người; Năm 2019, số lượng tín đồ là 25 triệu, số lượng chức
sắc, nhà tu hành là 87 nghìn người. Trước Đổi mới cả nước có 03 tôn giáo được
công nhận về tổ chức; đến tháng 12/2020, Nhà nước đã công nhận 36 tổ chức tôn
giáo (thuộc 16 tôn giáo), 04 tổ chức và 01 pháp môn được cấp chứng nhận đăng ký
hoạt động tôn giáo; 01 tôn giáo có một số chùa được cấp chứng nhận đăng ký hoạt
động tôn giáo, công nhận Ban Trị sự, Ban Quản trị chùa; 01 thánh đường của Hồi
giáo được công nhận Ban Quản trị thánh đường. Hiện nay, số lượng nơi thờ tự các
tôn giáo là 29.000, trong đó, gần 7.000 cơ sở thờ tự được cấp đất để xây mới.
Những số liệu đó là minh chứng hùng hồn phản bác lại luận điệu xuyên tạc, sai
trái của các thế lực thù địch về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong chế độ
xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, chế độ xã hội chủ nghĩa không những không kìm
hãm, hạn chế sự phát triển của tôn giáo, mà còn luôn tạo môi trường thuận lợi
cho việc thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chân chính của Nhân
dân../.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét