Đề cập
đến điều này, không phải tới tận xã hội cận hiện đại mới có, mà từ thời cổ đại
cả ở phương Tây và phương Đông đều nêu lên rồi. Chẳng hạn, Solon, vị chính
khách thời cổ đại Hy Lạp cho rằng, muốn có tự do và công bằng thì chúng ta phải
đặt luật pháp ngang hàng với sức mạnh (chính trị). Tới thế kỷ XVIII, Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp đã chính thức khẳng định: “tự do là
quyền của con người được làm tất cả những gì mà không phương hại đến quyền của
người khác”.
Ở Trung
Quốc cổ đại, Tử Sản, khi còn làm quan nước Trịnh (thời Xuân Thu) đã đặt ra quy
định cho phép mọi người dân được phê bình kẻ chấp chính, hay Chiêu Công Hổ -
một quan đại thần nhà Tây Chu đã ví việc tạo điều kiện cho người dân có thể nêu
ý kiến về mọi việc trong đời sống xã hội chẳng khác gì khơi thông dòng nước cho
con sông chảy ra biển.
Đối với
Việt Nam, vào năm 1919, quyền tự do ngôn luận lần đầu tiên được nêu lên khi
người thanh niên Nguyễn Tất Thành chính thức sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc để thay
mặt cho những người Việt Nam yêu nước ký vào Bản yêu sách của nhân dân An Nam
gửi tới Hội nghị các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất được tổ chức tại Véc-xây (cách thủ đô Paris của nước Pháp 14 km) mà
trong đó, quyền tự do ngôn luận được đặt ở vị trí thứ 3 trong 8 điều của bản
Yêu sách. Kể từ đó, nhân dân Việt Nam đã trải qua hơn 25 năm đấu tranh đầy cam
go, gian khổ để hiện thực hóa thành công cuộc cách mạng vô sản, giành lại nền
độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam vào năm 1945. Đặc biệt, năm 1946, quyền
tự do ngôn luận được trịnh trọng ghi nhận và bảo đảm thực hiện tại điều 10 Hiến
pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cho tới hiện nay, quyền tự do
ngôn luận tiếp tục được khẳng định và bảo đảm thực hiện tại điều 25 Hiến pháp
2013.
Khái lược
một số thông tin lịch sử để thấy rằng, nhân loại, trong đó có nhân dân Việt
Nam, khi thức tỉnh và đấu tranh cho những quyền cơ bản của con người, trong đó
có quyền tự do ngôn luận, đã phải trải qua những cuộc đấu tranh khốc liệt, thậm
chí hy sinh xương máu của bao thế hệ. Vì lẽ đó, quyền tự do ngôn luận nhất
quyết không phải là thứ mà những kẻ nào đó đem tới đất nước này để rao giảng,
dạy dỗ hay xuyên tạc, bịa đặt về việc thực hiện nó trong cuộc sống. Nó cũng
không phải là một quyền mà một bộ phận với nhận thức nông cạn, nửa vời, thô
thiển có thể sử dụng để dễ dãi lên tiếng phê phán, chỉ trích, kích động, nói
xấu vô căn cứ đối với các cá nhân, tổ chức. Thậm chí, trong bối cảnh hiện nay,
một bộ phận xã hội tự cho mình cái quyền tự do ngôn luận lại “tung tăng buông
lời trên mạng” một cách vô nguyên tắc.
Vậy thì,
muốn thực hiện tự do ngôn luận, trong đó cụ thể ở đây là tự do ngôn luận trên
mạng, đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tuân thủ và đáp ứng một số yêu cầu sau:
Một là, phải
nắm vững, hiểu rõ những quy định của pháp luật có liên quan. Công dân Việt Nam
phải hiểu biết đầy đủ, chính xác pháp luật, biết được quyền và nghĩa vụ của
mình khi thực hiện quyền tự do ngôn luận. Chỉ khi thực hiện quyền tự do ngôn
luận trong khuôn khổ pháp luật sẽ mang đến cho họ quyền tự do, không xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người khác.
Hai là, tự do
ngôn luận, nhất là tự do ngôn luận trên mạng là tự tương tác của cá nhân có thể
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ít chịu sự giám sát, phê duyệt mang tính tổ chức,
chính vì vậy đòi hỏi mỗi cá nhân công dân phải tự chịu trách nhiệm đối với mỗi
lời nói, câu viết của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng
xã hội, không phải thích nói và viết một cách bừa bãi, cảm tính nhất thời. Thực
hiện quyền tự do ngôn luận trên mạng phải chính đáng, có tính mục đích tiến bộ
rõ ràng, mang tính xây dựng, mang đến điều tốt đẹp, tích cực cho bản thân, cộng
đồng, xã hội và quốc gia.
Ba là, tự do
ngôn luận trên mạng là được bày tỏ quan điểm, chính kiến trên các báo mạng,
diễn đàn, mạng xã hội, v.v.. Cho nên, cá nhân công dân bên cạnh việc tuân thủ
những quy định của pháp luật chung, còn phải tuân thủ Luật Báo chí, đưa tin lên
mạng phải trung thực, đúng sự thật, không được bóp méo, cắt gọt gây hiểu lầm
hoặc khi đánh giá, phê bình phải có căn cứ rõ ràng.
Bốn là, thực
hiện quyền tự do trên mạng phải phù hợp với văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, lời nói hay câu viết cần phải phù hợp với thuần phong mỹ tục
của người Việt. Khi bình phẩm, nhận xét phải có lời lẽ ôn hòa, văn minh, lịch
sự, không được sử dụng ngôn từ cực đoan, gay gắt hay lai căng mang tính lăng
mạ, sỉ nhục, kỳ thị người khác.
Thực hiện
quyền tự do ngôn luận nói chung và tự do ngôn luận trên mạng nói riêng là điều
hoàn toàn chính đáng và được bảo đảm thực hiện trong xã hội. Mỗi cá nhân công
dân cần nhận rõ quy định pháp luật liên quan, nhận rõ tư duy và hành vi xử sự
của bản thân, góp phần xây dựng một xã hội Việt Nam tiến bộ, văn minh và phát
triển./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét