Báo chí có vai trò là phương tiện để công dân thực hiện
quyền tự do ngôn luận của mình. Quyền tự do báo chí là quyền của công dân được
sáng tạo tác phẩm báo chí, tiếp cận, cung cấp và phản hồi thông tin trên báo
chí… Ở Việt Nam những năm qua, tự do báo chí, tự do ngôn luận được Nhà nước bảo
đảm, thể hiện rõ trên cả khía cạnh pháp lý và thực tiễn. Song, lợi dụng chiêu
bài “tự do báo chí”, “tự do ngôn luận”, vấn đề “nhân quyền”, các thế lực thù địch
đã và đang ra sức tiến hành diễn biến hòa bình trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng
nhằm thao túng dư luận, gây rối loạn xã hội, chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Về mặt thủ đoạn, các đối tượng chống phá sử dụng chiêu
bài xuyên tạc khái niệm tự do báo chí; lôi kéo đội ngũ người làm báo theo hướng
phục tùng mưu đồ của chúng; viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật
pháp Việt Nam về tự do báo chí nhưng cố tình lờ đi những quy định pháp luật về
tự do báo chí, tự do ngôn luận rồi tán phát qua Internet, mạng xã hội làm cho
nhiều người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối, không có bất
cứ một hạn chế nào. Thậm chí, Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF) đã đưa
ra những đánh giá thiên lệch, thiếu khách quan và hoàn toàn không có cơ sở khi
xếp Việt Nam vào nhóm quốc gia “ít có tự do báo chí”. Những kẻ chống phá dường
như cố tình quên rằng việc đảm bảo mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật liên quan đồng thời được triển khai thực hiện trong thực tế. Nhiều
năm qua, Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều
kiện thúc đẩy và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền Ltự do
báo chí. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện
các quyền này do pháp luật quy định”. Điều 11, Luật Báo chí sửa đổi (2016) quy
định rõ: Công dân có quyền: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới;
tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên
báo chí đối với các tổ chức và cá nhân. Tính đến năm 2022, cả nước có 816 cơ
quan báo chí, trong đó 115 báo thực hiện 2 loại hình (in và điện tử): 116 tạp
chí thực hiện 2 loại hình; 29 báo và tạp chí điện tử chỉ có loại hình điện tử;
72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh-truyền hình; khoảng 41.600 nhân sự
đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, Cả nước hiện có 17.161 người được
cấp thẻ nhà báo 2021-2025 .
Yếu tố hạ tầng thông tin cũng là một điểm nhấn trong thực
hiện quyền tự do báo chí ở Việt Nam. Những năm qua, Việt Nam đang thực hiện mục
tiêu “Chuyển đổi số quốc gia”, hướng tới mỗi người dân có một điện thoại thông
minh; mỗi hộ gia đình có một đường Internet cáp quang tốc độ cao… Đó là nỗ lực
của chính phủ Việt Nam nhằm tôn trọng quyền được tiếp cận Internet của tất cả mọi
người; được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, được bảo đảm quyền tự do
ngôn luận. Thông qua các thể loại báo viết, báo ảnh, báo điện tử, Việt Nam tôn
trọng và phát huy quyền tự do báo chí của công dân, khi mà mọi chủ trương đường
lối, dự thảo luật đều được lấy ý kiến từ nhân dân thông qua chương trình truyền
hình, trang ý kiến đóng góp… Việt Nam không cấm tự do báo chí, tự do ngôn luận,
mà chỉ nghiêm cấm việc lợi dụng quyền tự do ấy để chống phá Đảng, Nhà nước, chế
độ, xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cản trở sự phát triển của
đất nước. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) khẳng định: “Mỗi người đều có
những nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá
nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc
thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những
đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
Thực tiễn thế giới cũng cho thấy, không chỉ ở Việt Nam mà
tại nhiều nước như Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Singapore… đều có chế tài, điều khoản luật
xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng tự do báo chí để vi phạm pháp luật. Nói
cách khác, tự do báo chí, ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải gắn với chế độ chính
trị, điều kiện xã hội, nền tảng đạo đức, pháp lý trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ
thể… Cũng không có quốc gia nào để bảo vệ chế độ, chủ quyền quốc gia mà cho
phép những kẻ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền xuyên tạc, chống phá tùy tiện.
Nếu một số nhà báo bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý trong năm 2021 thì đó
chính là những kẻ đang cố tình bóp méo sự thật, vi phạm Luật Báo chí của Việt
Nam. Những kẻ bị bắt không phải vì họ làm nghề viết báo, cũng không phải Việt
Nam không cho phép họ làm báo, mà vì họ vi phạm pháp luật, tung tin giả, tin xấu
độc xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc xử lý theo pháp luật
những kẻ vi phạm đó cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền tiếp cận những thông
tin chính xác, khách quan của công dân. Như vậy, ở Việt Nam, công dân có quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định, không ai được lạm dụng quyền các quyền đó để xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, tập thể và công dân, nghĩa là tự do trong khuôn khổ pháp luật chứ không
phải là tự do tuyệt đối. Những chiêu bài rao rằng ở Việt Nam “ít có tự do báo
chí”;“Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do Internet” là
xuyên tạc sự thật, bộc lộ rõ mưu đồ chống phá, tham vọng thay đổi chế độ chính
trị ở Việt Nam của các thế lực phản động./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét