Việt Nam
và Cam-pu-chia là hai nước láng giềng, có mối quan hệ hữu nghị truyền thống,
đoàn kết cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành độc lập, tự do
cho dân tộc. Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động, thù địch nước ngoài kích
động, lợi dụng, từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975),
quân Pôn Pốt đã tiến hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội
Việt Nam hoạt động ở chiến trường Cam-pu-chia, đồng thời gây chia rẽ nội bộ
những người cộng sản Cam-pu-chia. Chỉ tính riêng sáu tháng đầu năm 1973, quân
Pôn Pốt gây ra hơn 100 vụ, sát hại và làm bị thương hơn 100 bộ đội Việt Nam,
cướp hàng chục tấn lương thực và vũ khí.
Thực hiện
âm mưu chiến lược phá hoại mối quan hệ liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba
nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia nói chung và giữa hai nước Việt Nam -
Cam-pu-chia nói riêng, tháng 4-1975, sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pôn Pốt đã
phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Cam-pu-chia và phá hoại truyền
thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước, thực hiện chính sách diệt chủng
ở Cam-pu-chia và xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam. Cụ thể: Ở trong nước,
chúng thực thi chính sách diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra
tấn hành hạ dã man người dân Cam-pu-chia; biến trường học, nhà chùa thành nhà
tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể... Trong ba năm, tám tháng, 20
ngày (từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978), chế độ Pôn Pốt đã giết hại gần ba
triệu người dân Cam-pu-chia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị,
xóa bỏ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn
bán và đẩy Cam-pu-chia đứng trước thảm họa diệt vong. Chế độ hà khắc ban hành
đã trùm lên đất nước Cam-pu-chia đau thương: “Không tự do đi lại, không tự do
hội họp, không tự do ngôn luận, không tự do tín ngưỡng, không tự do học hành,
không tự do hôn nhân, không bệnh viện, không tiêu tiền, không buôn bán, không
chùa chiền... và không có cả nước mắt để khóc trước cảnh đau thương của dân tộc.
Chỉ còn căm thù và uất hận”.
Đối với
Việt Nam, tập đoàn phản động Pôn Pốt chủ trương phá nát mối quan hệ đoàn kết,
hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Cam-pu-chia; ra sức vu khống
Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; kích động xét lại quan hệ hai
nước, đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, vô cớ coi Việt Nam
là kẻ thù số 1 và tiến hành hàng loạt những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại
dân thường.
Năm 1975,
khi đất nước Việt Nam vừa thống nhất, tập đoàn phản động Pôn Pốt đã cho quân
xâm lược các đảo, biên giới đất liền Tây Nam nước ta. Ngày 3-5-1975, chúng đánh
chiếm đảo Phú Quốc; ngày 10-5-1975, chúng tiếp tục đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt
và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội biên phòng
ta, di dời cột mốc biên giới ở một số điểm thuộc các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum,
Đác Lắc. Tháng 10-1975, chúng xâm nhập khu vực Pa Chàm (Lổ Cồ), xâm canh các
khu vực: Mộc Bài, Khuốc, Vạt Sa, Tà Nốt, Tà Bạt. Cuối năm 1975 đầu năm 1976,
quân Pôn Pốt bất ngờ tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam, có
nơi hơn 10 km như ở vùng sông Sa Thầy (các tỉnh Gia Lai, Kon Tum), gây ra tộc
ác với nhân dân Việt Nam.
Đầu năm
1976, Pôn Pốt xác định: “Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam...”. Trong
thời gian này, tập đoàn phản động Pôn Pốt càng đẩy mạnh các hoạt động quân sự
phá hoại ta ở vùng biên giới Tây Nam. Cuối tháng 2, đầu tháng 3-1976, quân Pôn
Pốt khiêu khích hai đồn biên phòng số 7 và số 8 ở Bu Prăng (Đác Lắc). Cuối năm
1976, chúng tăng cường các hoạt động khiêu khích, lấn chiếm ở vùng biên giới
Tây Nam nước ta. Trên địa bàn Quân khu 7, chúng gây ra 280 vụ khiêu khích, lấn
chiếm 20 điểm trên biên giới. Ở hai địa bàn Quân khu 5 và Quân khu 9, các vụ
xâm lấn ngày càng tăng với tính chất ngày càng nghiêm trọng hơn.
Đi đôi với
hành động xâm lược, tập đoàn phản động Pôn Pốt ra sức tuyên truyền, bôi nhọ
hình ảnh Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là “kẻ thù
truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”. Lấy cớ làm sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại
dân, thực hiện nhiều cuộc thanh trừng đẫm máu, trong đó tập trung vào số cán bộ
trước đây được đào tạo ở Việt Nam.
Cùng với
các hoạt động khiêu khích, xâm lược thô bạo đến biên giới Tây Nam của Việt Nam,
trong hai năm (từ 30-4-1975 đến 30-4-1977), Pôn Pốt đã ráo riết chuẩn bị chiến
tranh. Chúng phân chia lại đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn,
xã, huyện, tỉnh theo kiểu quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động
tâm lý chống Việt Nam; xây dựng lực lượng, phát triển quân chủ lực từ bảy sư
đoàn khi mới giải phóng lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần
binh chủng, hàng chục nghìn quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và
trang thiết bị áp sát biên giới Việt Nam. Trong hai tháng 3 và 4-1977, quân Pôn
Pốt liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân diễn tập dọc biên giới với nước ta dưới
danh nghĩa “phòng thủ khu vực”, “bảo đảm an ninh nội địa”, nhưng thực chất đó
là các cuộc điều quân ra biên giới. Pôn Pốt tuyên bố: “Mâu thuẫn Việt Nam -
Cam-pu-chia là mâu thuẫn chiến lược sống còn, không thể điều hòa được, cũng
không thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng biện pháp quân sự”. Cuối
tháng 4-1977, Pôn Pốt điều động năm sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp
sát biên giới Việt Nam, thực hiện âm mưu xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng
biên giới Tây Nam của nước ta.
Đêm
30-4-1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm Ngày giải phóng hoàn
toàn miền nam, thống nhất đất nước, tập đoàn Pôn Pốt đã mở cuộc tiến công trên
toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm
lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Trước hành
động gây hấn và mở rộng chiến tranh của kẻ địch, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
kiềm chế và kiên trì thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị với Nhà nước Cam-pu-chia
dân chủ; Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tháng 12-1976, Đảng,
Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của mình: “Ra sức bảo vệ và
phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân
dân Cam-pu-chia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác
lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên
nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; làm cho ba nước vốn đã gắn
bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với
nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của
mỗi nước”(4). Bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tập đoàn
phản động Pôn Pốt ra sức tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, chủ động gây ra các vụ
xung đột, lấn chiếm biên giới Tây Nam Việt Nam; huy động phần lớn sức mạnh quân
sự, hàng chục sư đoàn chủ lực và nhiều trung đoàn địa phương tiến hành cuộc
chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây Nam Việt Nam. Đi đến đâu, chúng tàn phá
làng mạc, giết hại dã man người dân, kể cả người già, phụ nữ, trẻ em Việt Nam,
buộc chúng ta phải chọn con đường đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính đáng. Từ
tháng 12-1977, ta đã sử dụng lực lượng của Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và một số
sư đoàn của Quân khu 7, Quân khu 9 mở đợt phản công trên các hướng Đường 7,
Đường 1 và Đường 2, đánh bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch. Tiếp
đó, từ mùa khô năm 1978, quân và dân ta phối hợp các lực lượng vũ trang cách
mạng Cam-pu-chia liên tiếp mở các cuộc tiến công, đẩy lực lượng của tập đoàn
Pôn Pốt ngày càng rơi vào thế bị động, lúng túng. Với sự giúp đỡ của Việt Nam,
ngày 3-12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia chính thức được
thành lập. Đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Cam-pu-chia, từ ngày 23-12-1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ
trang của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia mở cuộc tổng phản công
- tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn
Pốt. Ngày 6-1-1979, ta bắt đầu tổng công kích vào Thủ đô Phnôm Pênh, đến ngày
7-1-1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận đoàn kết
dân tộc cứu nước Cam-pu-chia giải phóng Phnôm Pênh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn
toàn của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari.
Thắng lợi
trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam có ý nghĩa vô cùng to
lớn, là chiến thắng chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, chiến thắng chế độ diệt
chủng, chiến thắng của tình đoàn kết hữu nghị truyền thống Việt Nam -
Cam-pu-chia; chúng ta không chỉ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc mà còn cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, giành
lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hòa
bình và phát triển; giúp nhân dân hai nước khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị
vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước.
Thanh Tùng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét