Trên một số trang mạng của các đối
tượng phản động như Danlambao, Blog Bauxite Việt Nam, Facebook của Việt Tân… đã
đưa một số bài viết “Cộng sản Việt Nam hành động khó hiểu ở Biển Đông” bài viết nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ ngĩa Việt Nam. Những nội dung của bài viết hoàn toàn sai trái đi ngược lại
với công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, ngược với luật Biển Việt
Nam năm 2013, đi ngược lại vơi thực tế lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam như:
Theo nhà nghiên
cứu Nguyễn Đình Đầu, từ khi Việt Nam giành được quyền tự chủ vào năm 939, bản
thân chính quyền và các học giả Trung Hoa khi đó đã bắt đầu vẽ bản đồ nước ta,
song chủ yếu là phần đất liền. Phải đến các thế kỷ sau đó, Biển Đông và các hải
đảo của Việt Nam mới bắt đầu được mô tả trên bản đồ. Theo các tài liệu thu thập
được, hiện còn 3 tập bản đồ thể hiện khá rõ chủ quyền lãnh hải và đất liền của
Việt Nam, gồm: Bản đồ Giao Chỉ Quốc – Giao Chỉ Dương (trích từ bản đồ Võ Bị Chí
được vẽ từ khoảng thế kỷ XV); Bản đồ diên cách Việt Nam Đông Đô – Việt Nam Tây
Đô với Đông Dương Đại Hải của Ngụy Nguyên (khoảng năm 1842) và Bản đồ An Nam
Quốc với Đông Nam Hải.
Trong số các bản đồ này thì tập bản đồ
Võ Bị Chí có thể hiện một bán đảo lớn, đề rõ Giao Chỉ Quốc, trong đó phía Đông
là biển cả được ghi rõ Giao Chỉ Dương. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, vào
giai đoạn này nước ta tự xưng tên gọi là Đại Việt, Trung Quốc gọi là An Nam Quốc.
Tuy Võ Bị Chí vẫn gọi nước ta theo tên Giao Chỉ cổ đại nhưng cũng đã tỏ ra tôn
trọng chủ quyền của nước ta ở trên lục địa lẫn Biển Đông.
Sau này, Ngụy Nguyên ghi vẽ lại bản đồ
diên cách Việt Nam khá chính xác gồm: Việt Nam Đông Đô (tức Đàng Ngoài) và Việt
Nam Tây Đô (tức Đàng Trong). Ở ngoài khơi Việt Nam Đông Đô là quần đảo Vạn Lý
Trường Sa tức quần đảo Hoàng Sa ngày nay. Ngoài khơi thuộc Việt Nam Tây Đô là
quần đảo Thiên Lý Thạch Đường, tức Trường Sa. Ngoài khơi biển cả được ghi rõ là
Đông Dương Đại Hải.
Ngoài ra, trên bản đồ An Nam Quốc, Ngụy
Nguyên cũng đã ghi lại nhiều địa danh các vương quốc phụ thuộc làm cho ranh
giới chiếm phần lớn bên hữu ngạn sông Mê Kông, nay thuộc Thái Lan. Ngoài Biển
Đông, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Nam Hải, chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên
lục địa và biển cả là rộng lớn và được tôn trọng hiển nhiên.
Trong các văn bản chính thống, Lê Quý
Đôn và Phan Huy Chú đã chứng minh chủ quyền và quá trình khai thác và làm chủ
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trong sách Phủ Biên Tạp Lục
(1777), Lê Quý Đôn viết: "Xã An Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi
ở gần bãi biển. Về hướng đông bắc có nhiều đảo và nhiều núi linh tinh hơn 130
đỉnh... ở trong các hòn đảo có bến Cát Vàng, chiều dài ước chừng hơn 30 dặm... những
thuyền lớn đi biển thường khi gặp gió bão đều đến nương đậu ở đảo này. Họ
Nguyễn còn thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh bổ
sung... một đội Bắc Hải chèo thuyền ra cù lao Côn Lôn... hoặc đi đến các xứ Cồn
Tự vùng Hà Tiên để tìm kiếm”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng lưu
giữ được hai bản đồ quý từ thế kỷ XV - XVII, gồm An Nam Quốc (Hồng Đức 1490) và
Vương quốc An Nam (Alexandre de Rhodes, 1650) cũng biểu hiện khá rõ thềm lục
địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam đương thời. Sau này vào thời Gia Long, là
thời kỳ đầu tiên thống nhất nước ta từ ngoại giao đến nội trị, từ quốc phòng
đến hành chính, từ khai thác hầm mỏ đến bảo vệ hải đảo. Đây là giai đoạn mà các
tài liệu được ghi chép hết sức tỉ mỉ về các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam
trên Biển Đông. Riêng về ghi chép bản đồ, thời kỳ này có hai bản đồ An Nam Đại
Quốc Họa Đồ (Taberd 1838) và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ (1840) thể hiện khá đầy
đủ tình hình thềm lục địa, Biển Đông và hải đảo Việt Nam.
Phương Tây xác định chủ quyền các quần
đảo là của Việt Nam
Từ thế kỷ thứ XIX, song song với quá
trình xâm chiếm các thuộc địa, nhiều nước Phương Tây tiến hành đo vẽ bản đồ thế
giới gồm cả 5 châu lục, trong đó có thể hiện tên nước Giao Chỉ, với các cách
phiên âm rất khác nhau, như: Cochi, Cauchi, Cauci, Quachym, Cochin... Do có kỹ
thuật hiện đại về đo đạc nên có thể coi các tài liệu của Phương Tây về chủ
quyền các đảo, quần đảo tại Biển Đông thời kỳ này là tương đối chính xác.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ
thế kỷ thứ XVI, nước Đại Việt cùng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được
Phương Tây trích dẫn trên hầu hết các bản đồ thế giới hoặc khu vực Đông Á.
Riêng Alexandre de Rhodes 1650; Công ty Đông Ấn La Haye năm 1658 và Taberd năm
1838 đã vẽ riêng bản đồ Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Đình Đầu, trong số hàng
trăm bản đồ do Phương Tây thực hiện, hầu hết đều ghi rõ đất nước Việt Nam với
các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi tên chung là Paracel hay Pracel. Bờ
biển Prasel là ở Trung Bộ Việt Nam. "Không một bản đồ nào ghi bờ biển
Prasel ở Nam Trung Hoa hay Phi Luật Tân, Indonesia hoặc Mã Lai. Thật hiển
nhiên, khắp thế giới đều công nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt
Nam” - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhấn mạnh.
Với 50 bản đồ mô tả nước Việt Nam với
thềm lục địa và Biển Đông ấn hành suốt từ 1525 đến 1886, chúng ta thấy dần dần
sự hiểu biết của thế giới về đất nước Việt Nam ngày một chính xác, cả về hình
thể, lẫn địa danh (trong đó, gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa).
Việt nam có đầy đủ chứng cứ để khẳng
định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, quyền và quyền chủ
quyền trên Biển Đông phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982, và Luật Biển Việt nam năm 2013. Mọi luận điệu của kẻ thù và các thế lực
thù địch đều vô cớ xuyên tạc chủ quyền biển đảo, chủ quyền biên giới quốc gia của
nước ta, đề nghị toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nhận thức đúng đắn có
chính kiến, đoàn kết toàn dân tộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia
trên Biển và trên đất niền./.
Hồng Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét