Thứ Ba, 29 tháng 8, 2023

NHẬN DIỆN NHỮNG CHIÊU THỨC MỚI TRONG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH HIỆN NAY

 Gần đây, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục bổ sung vào chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều chiêu thức mới rất tinh vi, xảo quyệt. Những phương thức, thủ đoạn trước đây mà chúng tiến hành đã bị chúng ta phát hiện, lật tẩy và vạch mặt thì hiện nay bọn chúng lại đang tìm cách “thay hình, đổi dạng”, cho dù vẫn chỉ là “bình mới, rượu cũ” nhưng thâm độc hơn, nham hiểm hơn.

Những chiêu thức mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch, phản động hiện nay tiến hành đó là tìm mọi cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chúng đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn. Mặc khác, chúng đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, các vụ việc phức tạp, nhạy cảm liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng, chống dịch Covid-19… để tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội nhằm gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp.

Thâm độc và nguy hại hơn là chúng tập trung tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lênin, kêu gọi dùng “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác-Lênin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Cùng với việc công kích trực tiếp vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ súy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội ở nước ta… 

Có thể thấy, dù âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch có thay đổi thế nào, thì mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn không đổi, đó là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đi đến xóa bỏ Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đó lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Dù chính sách của chúng có thay đổi thế nào thì bản chất và mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn không thay đổi.

Để nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, phương thức, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hiện nay, thiết nghĩ cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, kịp thời giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, không để sơ hở cho kẻ địch lợi dụng chống phá; chủ động phát hiện và ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, không để bị động trong mọi tình huống; nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, đồng thời phân tích làm rõ âm mưu, phương thức, thủ đoạn mới của chiến lược “diễn biến hòa bình” để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu, khắc phục biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, thiếu niềm tin vào tương lai của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.


ĐẬP TAN ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chống phá cách mạng Việt Nam là một mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Chúng đưa ra những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013;… Trong đó, luận điệu “phi chính trị hóa quân đội” được những đối tượng này xác định là một nội dung trọng tâm. Với luận điệu “Quân đội là của quốc gia, dân tộc”, chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, vì vậy, Quân đội ta cần phải tuyệt đối trung thành với lợi ích của quốc gia dân tộc, đề cao khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết”, “vì quốc gia dân tộc”, “vì nhân dân” trong mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội. Chúng cho rằng quân đội phải “đứng ngoài chính trị”; quân đội cần phải “trung lập”, “đứng giữa”, không lệ thuộc hoặc đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào... Từ đó, đấu tranh phòng, chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ở nước ta là một yêu cầu, một nội dung đặc biệt quan trọng và cấp thiết trong quá trình xây dựng quân đội nước ta về chính trị.

Cần phải khẳng định rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam không thể “phi chính trị hóa” vì một số lý do sau:

Thứ nhất, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong thời kỳ quá độ tất yếu còn tồn tại chuyên chính vô sản, C.Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”. Bởi ở thời kỳ này, xã hội còn phân chia giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục, vẫn còn các lực lượng mưu toan phục hồi chế độ cũ, vẫn còn âm mưu xâm lược của các thế lực đế quốc. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động cần có nhà nước của mình để trấn áp lực lượng phản cách mạng, trấn áp bọn phá hoại trật tự xã hội mới và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu. Mà theo V.I.Lênin: “Chuyên chính là một chính quyền nhà nước trực tiếp dựa vào bạo lực. Bạo lực ở thế kỷ XX này, cũng như nói chung ở thời đại văn minh, không phải là quả đấm, cũng không phải là cái dùi cui nữa mà là quân đội”. Điều đó cho thấy hiện nay ở Việt Nam, quân đội vẫn là lực lượng chủ yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Về nguyên tắc, Đảng Cộng sản Việt Nam phải giữ vai trò lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, chúng ta không chấp nhận luận điệu “Đảng không nắm Quân đội” và để quân đội trung lập.

Thứ hai, bài học từ thực tiễn một số nước “phi chính trị hóa” quân đội.

Ở Liên Xô, trong thời gian M.Gorbachev làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô đã từ bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin; xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho quân đội Liên Xô bị “phi chính trị hóa” và dẫn đến bị vô hiệu hóa. Chỉ trong khoảng hai năm từ 1987-1989, gần 50% cán bộ cơ quan chiến lược của quân đội và khoảng 30% tướng lĩnh bị cho ra quân, trên 100 cán bộ lãnh đạo chính trị cấp chiến dịch-chiến lược bị cách chức với lý do “tư tưởng bảo thủ, yếu kém, không ủng hộ cải tổ”. Ngày 29/8/1991, M.Gorbachev ra lệnh giải tán các cơ quan chính trị và từ 01/9/1991 chấm dứt mọi hoạt động của Đảng trong Quân đội Liên Xô. Bi kịch “phi chính trị hóa” xảy ra đã khiến Quân đội Xô Viết, một quân đội hùng mạnh từng đánh bại chủ nghĩa phát xít, với gần 4 triệu quân thường trực, vũ khí trang bị rất hiện đại bỗng chốc mất phương hướng chiến đấu, không biết phải bảo vệ mục tiêu nào trong “thảm họa chính trị” tháng 8/1991 dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô.

Trong thời gian gần đây, một số cuộc đảo chính ở các nước do quân đội các nước thực hiện đã dẫn đến sự bất ổn về chính trị - xã hội và làm suy yếu đất nước như ở Thái Lan, Myanma,v.v.. cho thấy bài học đắt giá khi thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội; càng giúp chúng ta hiểu hơn lời dạy của V.I.Lênin: Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, “quân đội không thể và không nên trung lập”.

Thứ ba, lịch sử đã kiểm nghiệm và khẳng định những thành tựu của Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay từ khi thành lập, Quân đội nhân dân Việt Nam đã là Quân đội của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân nhưng mang bản chất giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau 79 năm thành lập, Quân đội ta đã cùng Nhân dân đánh thắng những kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, lập nên những kỳ tích vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Quân đội nhân dân Việt Nam không có mục đích chính trị tự thân, mà là thực hiện chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.

Để đấu tranh bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Một là, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quân đội cho phù hợp với tình hình mới, kiện toàn hệ thống và nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong Quân đội.

Hai là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cần tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ và chủ động đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Tiếp tục đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho mọi quân nhân, tạo ra sự “miễn dịch” cần thiết, tăng sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luận điệu “phi chính trị hóa” quân đội ta của các thế lực thù địch.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp xây dựng Quân đội, đảm bảo Quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhà nước và Nhân dân, có đủ sức mạnh hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi hoàn cảnh, mọi tình huống.

Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, chống quan điểm “Quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội cách mạng. Đó là quá trình xây dựng và đấu tranh liên tục, xuyên suốt các bước trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội cách mạng, đòi hỏi phải thực hiện tổng hợp các biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách... trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh./.


CHỐNG BIỂU HIỆN CƠ HỘI VỀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG NHIỆM VỤ CẤP BÁCH, THƯỜNG XUYÊN

 Cơ hội chính trị bao hàm nhiều đối tượng khác nhau ở trong và ngoài Đảng nhưng đều mang điểm chung là có nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong đó, những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nước ta hiện nay ngày càng phức tạp, tinh vi và nguy hiểm. Đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị là một nhiệm vụ cấp bách, một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Các nhà lý luận mác-xít đã chỉ mặt những phần tử cơ hội

Ngay từ khi mới ra đời, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phải đấu tranh không khoan nhượng với những quan điểm sai trái, thù địch được núp bóng dưới mọi hình thức. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin đã chỉ ra một loại kẻ thù hết sức nguy hiểm, đó là những phần tử cơ hội, khoác áo cộng sản nhưng lại ngấm ngầm chống phá Đảng. Đó là những con người chỉ vì lợi ích nhất thời hằng ngày mà quên đi những quan điểm chủ yếu lớn; chạy theo những thành công chốc lát và đấu tranh cho những thành công chốc lát mà không tính đến hậu quả về sau... tất cả những việc ấy có thể xuất phát từ những động cơ “thành thật”. "Nhưng đó là và sẽ vẫn là chủ nghĩa cơ hội, mà chủ nghĩa cơ hội “thành thật” có lẽ lại là thứ chủ nghĩa cơ hội nguy hiểm hơn hết cả” và nguồn gốc sinh ra chủ nghĩa cơ hội ấy từ các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng và lịch sử.

V.I.Lênin là người kế tục xuất sắc nhất sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, đã phấn đấu quên mình để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại báo hiệu sự suy sụp của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của cách mạng vô sản, đưa chủ nghĩa Mác lên một bước phát triển mới, thành Chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng, nhất là những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga Xô viết, trong bài viết “Về vấn đề thanh đảng”, V.I.Lênin vạch rõ mặt những phần tử cơ hội trong đảng, những phần tử giỏi về thủ đoạn “ngoại giao tư sản”, khả năng thích ứng “thay màu đổi sắc để ẩn nấp được dễ dàng hơn, như con thỏ rừng, về mùa đông, thay lông thành màu trắng”. Vì thế, V.I.Lênin yêu cầu, cần phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược. Theo V.I.Lênin, có như vậy sẽ làm cho đảng trở thành một đội tiền phong của giai cấp vô sản vững mạnh hơn.

Vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống mọi biểu hiện cơ hội trong Đảng. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, việc đầu tiên, trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Đảng, Người căn dặn: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Để Đảng Cộng sản là một Đảng thực sự cách mạng, chân chính, tất yếu phải đấu tranh chống những biểu hiện cơ hội trong Đảng, nhất là cơ hội về chính trị.

Trong bối cảnh hết sức khó khăn khi mới thành lập Đảng, nhưng nhiệm vụ đấu tranh chống những phần tử cơ hội trong Đảng luôn đặt ra yêu cầu cấp thiết. Song cũng phải nhận diện rõ và phân loại đối tượng cụ thể để có phương pháp đấu tranh phù hợp. Nghị quyết của toàn thể Hội nghị Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 20 và 30-3-1938 chỉ rõ: “Phải tẩy sạch những phần tử trotsky đã lọt vào trong Đảng”. Do đó, muốn đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị tốt, cần phải nhận diện đúng thực chất “cơ hội về chính trị”.

Nhận diện những biểu hiện cơ hội chính trị trong Đảng

Từ những nghiên cứu, luận giải trên cho thấy, cơ hội chính trị bao hàm nhiều đối tượng khác nhau ở trong và ngoài Đảng nhưng đều mang điểm chung là có nhận thức và hành động đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam. Trong đó, những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nước ta hiện nay ngày càng phức tạp, tinh vi và nguy hiểm.

Hơn 90 năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, nhiều lần khẳng định trong các nghị quyết. Trong đó nhấn mạnh: “Hiện nay phải đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ Đảng, trước hết là bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng, cảnh giác và tỉnh táo không để cho những phần tử cơ hội về chính trị, phản động chui vào hàng ngũ Đảng”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định phải: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”.

Nhận diện những biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng hiện nay qua 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đối tượng đấu tranh chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng là những cán bộ, đảng viên hiện đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội, cơ quan đoàn thể hoặc đã nghỉ hưu được luật pháp quy định...

Biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng ở nhiều cấp độ khác nhau, như: Nhóm đối tượng do hạn chế về nhận thức, thiếu thông tin hoặc tiếp nhận những nguồn tin không chính thống, bị kẻ xấu lợi dụng; nhóm đối tượng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, công thần, sống vụ lợi, ích kỷ; nhóm đối tượng công khai bộc lộ tư tưởng cực đoan, bất mãn, chống đối và đặc biệt nghiêm trọng là nhóm có khuynh hướng chống đối, tập hợp lực lượng, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài chống phá cách mạng Việt Nam, khi đó từ cơ hội về chính trị đến phản bội Đảng, Tổ quốc và nhân dân là rất gần. Biểu hiện chung nhất là phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; tham vọng chức quyền...

Kiên quyết và đồng bộ giải pháp phòng, chống biểu hiện cơ hội chính trị

Trong tình hình hiện nay phải đặc biệt quan tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tăng cường đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng với hệ thống các giải pháp. Trước hết, tập trung vào một số giải pháp như: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị ở nước ta hiện nay. Phát huy vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quản lý, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phát huy dân chủ, sức mạnh tổng hợp đấu tranh phòng, chống biểu hiện cơ hội về chính trị, nhất là biểu hiện cơ hội về chính trị trong Đảng với lộ trình, bước đi, hình thức, phương pháp, giải pháp phù hợp, thiết thực, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các khâu, các bước trong tuyển chọn, bố trí sử dụng, không để những phần tử cơ hội về chính trị chui sâu, leo cao phá hoại Đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử có biểu hiện cơ hội về chính trị. Thực hiện tốt công tác chính sách cho các đối tượng đúng quy định của pháp luật, kịp thời tôn vinh, động viên, đãi ngộ thỏa đáng những người có công với cách mạng. Kiên quyết đấu tranh, đập tan những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.


BỆNH CÔNG THẦN, KÊU NGẠO CỘNG SẢN “HỌ ĐÃ VÀ ĐANG TỰ ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH”

Chúng ta hẳn có nhớ một sự việc gần đây, từng có cựu Ủy viên Trung ương Đảng tuổi đời còn trẻ, tương lai đang rộng mở thì tay đã “dính chàm”, bị cách hết mọi chức vụ. Nguyên nhân do nhiều sai phạm, trong đó một phần do thói độc đoán, chuyên quyền, kiêu ngạo, không biết lắng nghe, không tôn trọng cả cấp trên và cấp dưới trong cơ quan, đơn vị.

Lại có cán bộ cấp cao lúc nghỉ hưu vẫn không giữ được mình, có nhiều sai phạm ảnh hưởng đến thanh danh họ, như cựu quan chức mạt sát cảnh sát giao thông; cựu bộ trưởng đòi đặc quyền đặc lợi,... Đáng buồn hơn, có cả cán bộ kinh qua rèn luyện, cống hiến, lập nhiều chiến công nhưng lúc nghỉ hưu lại thiếu tỉnh táo, nói và viết không đúng đường lối quan điểm của Đảng; tiếp xúc với nhiều đối tượng cơ hội chính trị, thậm chí cả đối tượng phản động, bị chúng lợi dụng, kích động, dẫn đến tán phát nhiều thông tin xấu, gây hoang mang, bức xúc trong dư luận. Trước góp ý chân thành của đồng chí đồng đội, những người này lại không tiếp thu, sửa chữa, cho rằng cách nghĩ, cách làm của họ mới là cấp tiến, là “trở về với nhân dân”.

Họ còn tham gia các cuộc tọa đàm, trao đổi, tham gia xuất bản những ấn phẩm do một vài hội, nhóm tổ chức gây ra những tranh cãi, bất đồng chính kiến làm bức xúc dư luận. Rồi còn tham gia ký các đơn, tâm thư, thỉnh nguyện tập thể có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, không có lợi cho đất nước, quân đội nhưng họ lại được kẻ xấu tung hô, ngợi ca nên ngày càng mù quáng... Ngay trong lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn hóa văn nghệ, nhiều năm qua, chúng ta không khỏi đau xót khi thấy có những nhà văn, nhà báo, nhà quản lý từng dạn dày kinh nghiệm, có tên tuổi nhưng khi nghỉ hưu đã đánh mất chính mình, đăng đàn nói, viết những điều sai trái, đi ngược với lý tưởng cả một đời theo đuổi. Có người còn tham gia thường xuyên viết bài, cộng tác cả cho những trang mạng phản động, có người bị kích động và bị lợi dụng để rồi xuất hiện trong những clip với nhiều nội dung sai sự thật, có cả thông tin xấu độc gây hoang mang dư luận. Có người để lại lời nói, việc làm thiếu trách nhiệm, tùy tiện đưa thông tin sai sự thật, xúc phạm danh dự, uy tín lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, quân đội... Đó là biểu hiện của bệnh công thần, kêu ngạo cộng sản và điều đó dần làm cho họ đánh mất chính mình.

Thiết nghĩ với cán bộ cao cấp, càng đòi hỏi khi đương chức cũng như nghỉ hưu phải có sự tỉnh táo, cẩn trọng khi nói và làm, nhất là phát ngôn trên truyền thông và mạng xã hội, đặt lợi ích của đất nước, của cộng đồng lên trên; giữ gìn bản lĩnh, danh dự và uy tín người quân nhân cách mạng. Sinh thời, Bác Hồ từng gửi cho Thiếu tướng Nguyễn Sơn 12 chữ: “Đảm dục đại” (Gan phải to); “Tâm dục lễ” (tấm lòng, tâm hồn phải trong sáng); “Trí dục viên” (Suy nghĩ trọn vẹn, toàn diện, chu đáo); “Hạnh dục phương” (Hành động đúng đắn, ngay thẳng, phân minh, đàng hoàng). Sau này, nói chuyện với các tướng lĩnh, Bác nói đến 6 đức tính cần phải có, gồm: Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung nhưng phẩm chất đầu tiên phải có là Trí. Người chỉ rõ Trí là phải có đầu óc sáng suốt, nhìn mọi việc để suy xét, rồi quyết định cho đúng. Suy nghĩ thấu suốt, nhìn xa trông rộng, phát ngôn rạch ròi, có thể định hướng dư luận, thế mới xứng tầm của những người từng ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy trong tình hình hiện nay.


Thứ Tư, 23 tháng 8, 2023

ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU LỢI DỤNG DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN CHỐNG PHÁ VIỆT NAM

 Vấn đề dân chủ, nhân quyền luôn là một trong những nội dung được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhằm xóa bỏ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng ra sức xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; phủ nhận thành tựu, thực tiễn về các giá trị lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về dân chủ, nhân quyền. 

Chúng còn triệt để lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong hoạch định các quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, khai thác các vấn đề nhạy cảm, phức tạp diễn ra trong nước để xuyên tạc vu cáo Đảng, Nhà nước là “vi phạm quyền con người, bóp nghẹt, đàn áp các quyền tự do cơ bản của người dân…”. Chúng ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”. Chúng triệt để lợi dụng thế mạnh của mạng xã hội nhằm tuyên truyền, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền trong nước, kích động, chia rẽ nội bộ, hình thành các tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta.

Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống phá nước ta, cần thực hiện một số giải pháp:

Công tác đấu tranh với hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống phá nước ta luôn phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước; triển khai đồng bộ các mặt công tác từ nắm tình hình, chủ động phát hiện phòng ngừa đến triển khai công tác đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các hoạt động chống phá của kẻ địch một cách liên tục, thường.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm đảo bảo ngày càng tốt hơn về quyền con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ của Nhân dân trên cơ sở pháp luật. 

Chú trọng tuyên truyền chính sách, thành tựu đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo…kết hợp với công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, góp phần đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân trên cơ sở pháp luật./.


CHIA RẼ MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – CAMPUCHIA LÀ ĐIỀU KHÔNG THỂ

Trong cuộc bầu cử Quốc hội Campuchia tháng 7-2013, nhằm tập hợp lực lượng và thu hút cử tri ủng hộ, Đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia của ông Sam Rainsy đã đưa ra cương lĩnh: “Tăng cường biện pháp siết chặt quản lý người nước ngoài nhập cảnh trái phép, đặc biệt là người Việt Nam”. Sam Rainsy cũng nhiều lần lên tiếng cho rằng “Việt Nam đã xâm chiếm Campuchia, lấy đất của Campuchia ở vùng biên giới Tây Nam”. Trước những phát ngôn làm tổn thương tình cảm, nghĩa tình hai dân tộc, ông Phay Siphan, phát ngôn viên Văn phòng Chính phủ Campuchia phát biểu ngày 13-8-2013 rằng: Chính phủ Campuchia lấy làm tiếc vì trong chiến dịch tranh cử Quốc hội khóa V, ông Sam Rainsy đã có những phát biểu mang tính kích động, chia rẽ dân tộc Việt Nam và Campuchia. Ông Phay Siphan khẳng định quan điểm của Chính phủ Campuchia: người Việt Nam đã sinh sống nhiều đời tại Campuchia và có đủ giấy tờ là công dân Campuchia hợp pháp với đầy đủ quyền lợi được pháp luật bảo vệ...trên internet và mạng xã hội vẫn có những tiếng nói lạc lõng xuyên tạc cuộc chiến tranh này. Họ phát tán luận điệu cũ rích: “Cuộc tấn công của quân đội Việt Nam (giải phóng Campuchia) là cuộc chiến tranh xâm lược”; Tuy nhiên Kết quả phiên tòa xét xử Khmer Đỏ, phát ngôn của các nhà lãnh đạo Chính phủ Campuchia về nguyên nhân của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Việt Nam (1975-1979) đã hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch rằng “Việt Nam xâm lược, xâm lấn Campuchia”. Thực tế đây là cuộc chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc của quân dân Việt Nam và là chiến thắng của tình đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Campuchia. theo Thủ tướng Campuchia Hun Sen giải thích: “Sau chiến thắng ngày 7-1-1979, nếu như theo kế hoạch ban đầu, bộ đội Việt Nam sẽ rút quân khỏi Campuchia ngay trong năm 1979. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Campuchia chưa đủ sức chống lại Pôn Pốt và cần thời gian để củng cố lực lượng cũng như khôi phục nền kinh tế của mình. Nếu Việt Nam rút quân và Pôn Pốt quay trở lại được thì sẽ càng nhiều người Campuchia bị giết”, và “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi đã yêu cầu họ như thế...”. Ngày 2-1-2012, Thủ tướng Campuchia Hun Sen khi sang Việt Nam dự lễ khánh thành di tích lịch sử Sư đoàn 125 (quân đội Campuchia), tiền thân là lực lượng vũ trang Đoàn kết cứu nước Campuchia, tại ấp Suối Râm, xã Long Giao, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, đã đặt câu hỏi trong bài phát biểu của mình: “Trên thế giới này có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt và ngăn cản sự quay lại của chúng?”. Ông đã trả lời câu hỏi: “Đúng vào lúc người dân Campuchia sắp chết, chỉ còn biết chắp tay khẩn cầu Tiên Phật tới cứu thì bộ đội tình nguyện Việt Nam đã đến. Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”. Sự biết ơn của Chính phủ và nhân dân Campuchia đối với công lao của quân tình nguyện Việt Nam không chỉ nằm ở những tượng đài lịch sử, mà nằm sâu trong lòng mỗi người dân. Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Campuchia, Heng Samrin, trong Lễ kỷ niệm 35 năm ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và cùng quân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng, tổ chức ngày 5-1-2014, đã xúc động chia sẻ: “Nhân dân Campuchia chúng tôi mãi mãi tri ân công lao đó và xin khắc ghi trong lịch sử của mình để nhắc nhở cho con cháu muôn đời sau. Bởi nếu không có sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Việt Nam thì nhân dân Campuchia chúng tôi chắc chắn không còn tên tuổi của mình trên thế giới này”. Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy được rằng mối quan hệ Việt Nam – Campuchia luôn đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của hai bên vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước./.

Thứ Ba, 22 tháng 8, 2023

MỘT SỐ THÁCH THỨC TRONG ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

 Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Do không gian mạng có tính mở với đặc trưng tự do, đa dạng, bình đẳng, nhiều khi bị xoá nhoà ranh giới giữa thực và ảo, vì vậy không gian mạng mang đến những thách thức to lớn đối với nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Hiện nay, các hệ tư tưởng, các luận điểm, các học thuyết ngoài mácxít, từ các loại chủ nghĩa khác nhau như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa khủng bố mạng… cho đến chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, cũng như vô số các tôn giáo, tín ngưỡng, thậm chí là mê tín dị đoan, đang xuất hiện một cách tràn lan trên không gian mạng. Lợi dụng triệt để những ưu thế của không gian mạng, một cách trực tiếp hay gián tiếp, các loại hình ý thức hệ đó đã và đang công khai hay ngấm ngầm chĩa mũi nhọn vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều luận điểm, quan điểm trong các ý thức hệ đó đi ngược lại với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời chứa đựng tính chất độc hại, phản động, đang bóp méo thế giới quan và xuyên tạc nhân sinh quan, cố tình định hướng giá trị một cách sai lầm cho những người dùng mạng internet nói riêng và cho người dân Việt Nam nói chung. Đấu tranh trên không gian mạng hiện nay thực sự là cuộc “đọ súng” trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Trận địa tư tưởng cần vũ khí quan trọng nhất là vũ khí lý luận, song lý luận phải thật sự khoa học chứ không phải lý thuyết suông, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và mang hơi thở của cuộc sống, phải bao quát được những vấn đề nền tảng, có tính quy luật và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề then chốt. Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không đều liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, để có thể định hướng tư tưởng trên không gian mạng, mỗi chúng ta cần phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng sự thực khách quan, đối mặt với các vấn đề đang nảy sinh từ thực tiễn của xã hội; dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI THỦ ĐOẠN BÔI NHỌ HÌNH ẢNH QUÂN ĐỘI

 Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Cội nguồn hàng đầu làm nên sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta trong gần 80 năm qua là do sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Vì vậy, việc thấm nhuần và thực hiện mục tiêu, lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” phải được xác định là mạch sống và “linh hồn” của QĐND Việt Nam, là phương châm hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, lợi dụng một số vụ việc xảy ra trong toàn quân. Những kẻ cơ hội chính trị trong nước kết nối với số phản động lưu vong đã không ngừng khoét sâu và hướng lái sự việc sang một chiều hướng hoàn toàn mang dụng ý tiêu cực hòng làm suy giảm niềm tin của Nhân dân với Quân đội, gây chia rẽ tình đoàn kết quân dân. Đây là âm mưu vô cùng nham hiểm nhằm phá hoại công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đã và đang được các thế lực thù địch triệt để tận dụng với cường độ đặc biệt cao. Do đó, quá trình tham gia mạng xã hội mỗi cán bộ, chiến sĩ cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tuyệt đối không tin vào những thông tin chưa kiểm chứng và đặc biệt chú ý làm tốt công tác tuyên truyền để mỗi quân nhân thực sự là một chiến sĩ kiên trung, mỗi cơ quan, đơn vị là một pháo đài vững chắc cùng Nhân dân trên địa bàn đóng quân phòng, chống những luận điệu thâm độc một cách hiệu quả nhất.

ĐẤU TRANH CHỐNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN

 Âm mưu, thủ đoạn chống phá của bọn phản động Fulro ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Chúng sử dụng tổng hợp các biện pháp và thủ đoạn để chống phá trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, kinh tế, quốc phòng, an ninh. Bằng nhiều phương thức, các lực lượng phản động tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng, Nhà nước ta dành cho khu vực Tây Nguyên. Chúng lợi dụng những thiếu sót trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số để xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, Nhà nước, hòng gây sự hoài nghi, chia rẽ trong đồng bào. Chúng tìm mọi cách vừa tuyên truyền xuyên tạc, vừa khoét sâu mâu thuẫn giữa người Kinh với người dân tộc, lợi dụng một số cán bộ địa phương có sai lầm, khuyết điểm để kích động đồng bào tụ tập đấu tranh, gây rối, biểu tình. Chúng triệt để lợi dụng và xoáy sâu vào vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, đất đai, xem đây là những “ngòi nổ” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, “bài Kinh”.

Cuộc đấu tranh chống lợi dụng vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên là một quá trình lâu dài, phức tạp, không chỉ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt mà còn có tính chiến lược trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên, ngăn chặn hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, cấp ủy, chính quyền và các cơ quan, ban ngành tăng cường truyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm cho nhân dân, trước hết là đồng bào dân tộc thiểu số thấy được tính đúng đắn, ưu việt trong các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách dân tộc còn hiệu lực nhưng có bất cập, đồng thời đề xuất với Đảng, Chính phủ ban hành các chính sách đặc thù để tập trung hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo bền vững.

Thứ ba, tập trung đấu tranh giải quyết vấn đề Fulro, tăng cường chỉ đạo đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, những thông tin sai trái với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; thành lập bộ phận nghiên cứu phản tuyên truyền, đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại và đấu tranh ngoại giao để vô hiệu hóa các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.


GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

 Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9/1945 chính là ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa và ngày nay chính là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 2/9 được xem là một cột mốc chói lọi trong hành trình nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta. Khi Bản Tuyên ngôn được đọc lên, đó chính là văn bản pháp lý khẳng định nước Việt Nam tự do độc lập với toàn thế giới. Nhắc đến ngày lễ Quốc Khánh 2/9 trong trái tim mỗi người Việt Nam lại bùng lên những cảm xúc thiêng liêng, xúc động, niềm tin kiêu hãnh và lòng tự hào dân tộc. Ngoài ra đây cũng là dịp để mọi người trên đất nước Việt Nam cùng nhớ tới những công lao hy sinh to lớn của các cha ông đi trước. Nhớ lại chặng đường lịch sử gian khổ và hào hùng, từ đó dân ta càng phải tiếp tục xây dựng và bảo vệ tổ quốc phát triển hơn nữa. Ngày Quốc Khánh 2/9 như một mốc son chói lọi, như một “chứng nhân lịch sử” dù thời gian đã trôi qua nhưng những chiến tích vẻ vang của dân tộc vẫn còn mãi với thời gian, với bản tuyên ngôn bất hủ mà các thế hệ sẽ không thể nào quên. Ngày Quốc Khánh mùng 2/9 không chỉ có ý nghĩa lịch sử to lớn mà còn như lời nhắc nhở thế hệ trẻ ngày nay khi sinh ra trong hòa bình, không phải chứng kiến cảnh đất nước chia cắt, súng đạn và chiến tranh, phải luôn luôn học tập, rèn luyện sao cho xứng đáng với câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”, cũng như giáo dục lòng tự hào về truyền thống vẻ vang của ông cha ta, đã kiên cường bất khuất đánh đuổi quân xâm lược bảo vệ Tổ quốc. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Với tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt gần 80 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, chúng ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

HÃY DỪNG NGAY NHỮNG PHÁN XÉT VÔ CĂN CỨ CHO RẰNG “Ở VIỆT NAM THIẾU TỰ DO TÔN GIÁO”

 Ở Việt Nam hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản, Vu Lan, Noel... không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành ngày vui chung, ngày hội lớn của mọi người. Nhờ có những chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam nên ngày càng nhiều những hình ảnh sinh động này.

 Ngày lễ Noel của những người theo đạo Công giáo, Tin lành, trong dòng người nườm nượp đổ về các nhà thờ không chỉ có những người theo đạo Công giáo hoặc Tin lành mà còn có đông đảo những người theo các tôn giáo khác hoặc không theo tôn giáo nào. Cũng vậy, ngày lễ Phật đản của Phật giáo đâu phải chỉ có người theo đạo Phật mới đến chùa. Có lẽ vì vậy mà trong những năm qua, chùa chiền, nhà thờ mọc lên ở khắp mọi nơi, số tín đồ của các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo, hệ phái tôn giáo mới đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép hoạt động.  

Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm ngày một tốt hơn; các tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự.. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.  

Nếu thực sự “còn giới hạn tự do tôn giáo ở Việt Nam” thì các tổ chức tôn giáo có thể xác lập được vị trí, phát triển ổn định như hiện nay, đời sống và sinh hoạt tôn giáo của người dân có sôi động, tự do như hiện nay? Bởi vậy, dừng ngay đi những đánh giá thiên kiến và không đúng về tình hình tôn giáo ở Việt Nam! 

Trong văn kiện “Tầm nhìn chung” được ký kết giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, hai bên tiếp tục tái khẳng định nguyên tắc: “Tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền quản lý xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý nhà nước về tôn giáo thật sự có hiệu quả, phát huy tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước Việt Nam phải áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đặc biệt là các hành động lợi dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Người Việt Nam có câu nói quen thuộc “trăm nghe không bằng một thấy”, chỉ nghe mà không nghe bằng hai tai thì thật là tai hại. Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định nhất quán rằng ở Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm, tù nhân tôn giáo; ở Việt Nam chỉ có những người bị bắt, bị xử phạt vì vi phạm pháp luật Việt Nam. Thực tế từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và thực tiễn sinh động về tôn giáo ở Việt Nam chính là minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những đánh giá không khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam./.


CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC

 Trong giai đoạn hiện nay, những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là một trong những chiêu thức, thủ đoạn hết sức thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội nhằm phủ nhận đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, nhất là suy diễn một cách phiến diện, bịa đặt, xuyên tạc mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đặc biệt lợi dụng một số vấn đề còn bất đồng, tranh chấp về chủ quyền biển đảo giữa nước ta và Trung Quốc trên biển Đông để cố tình xuyên tạc cho rằng chúng ta quá lệ thuộc vào Trung Quốc, từ đó kích động một bộ phận quần chúng có cách nhìn phiến diện, tiêu cực, thiếu khách quan, toàn diện cố tình xuyên tạc sự thật về mối quan hệ Việt Nam- Trung Quốc. Gần đây nhất ngày 10/8/2023, trên trang blog Đối thoại, đối tượng Tử Long phát tán bài “Việt Nam vẫn im lặng về vụ bãi Cỏ Mây”; ngày 11/8/2023, trên trang blog VOA Tiếng Việt tán phát tin bài “Việt Nam muốn mở thêm Tổng lãnh sự quán ở Trung Quốc, hứa không tiếp xúc chính thức với Đài Loan”, nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam và chuyến thăm, làm việc của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ tại Trung Quốc, kêu gọi Việt Nam cần thay đổi biện pháp trong giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông.

Thực tiễn cách mạng đã khẳng định và chứng minh rằng: Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng và nhất quán thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại và ngoại giao “cây tre Việt Nam” rất đặc sắc, độc đáo mang đậm bản sắc, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đối với Trung Quốc, nước ta đã có những bước phát triển mới, là mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện từ năm 2008, hai nước thiết lập quan hệ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” với phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Hai nước đã ký nhiều hiệp định và văn kiện hợp tác, đặt cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác lâu dài, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Hợp tác giữa hai Đảng được đẩy mạnh và tốt đẹp; quan hệ giữa các địa phương được tăng cường với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt, trên lĩnh vực kinh tế, từ năm 2004, Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam; tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 175,57 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt 57,7 tỷ USD, còn nhập khẩu 117,87 tỷ USD.  Như vậy kể từ khi bình thường hóa quan hệ , kim ngạch thương mại Việt - Trung tăng hơn 5.400 lần, từ 32 triệu USD (1991) lên gần 175,57 tỷ USD (2022).

Về các vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, sau rất nhiều lần đàm phán ở nhiều cấp, nhiều năm, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết hoàn toàn   vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000; đến năm 2008, hai nước đã hoàn thành  việc hoạch định đường biên giới trên văn bản và bản đồ và việc phân giới cắm mốc trên thực địa toàn bộ đường biên giới; đánh dấu vị trí biên giới bằng hệ thống 1971 cột mốc (1379 mốc chính, 402 mốc phụ) với tổng chiều dài 1.449,566 km. Đối với vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, chúng ta thấy rất rõ đây là vấn đề lịch sử, phức tạp, lâu dài khi xem xét cần phải kiên trì, bản lĩnh, tỉnh táo, tránh nóng vội chủ quan. Hai bên đã nhất trí giải quyết trên tinh thần nhìn từ tầm cao chiến lược, vì lợi ích của nhân dân hai nước, phù hợp với luật pháp quốc tế và quan hệ hữu nghị, truyền thống, không để ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định của mối quan hệ hai nước. Trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 11/2022, hai bên nhất trí giải quyết về vấn đề trên biển với chủ trương kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông là vô cùng quan trọng, đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương, nhất trí, sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp. 

 Tóm lại, âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn và mối quan hệ hữu nghị Việt Nam và Trung Quốc chỉ là những chiêu thức, thủ đoạn hết sức nham hiểm, thâm độc để các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động sử dụng nhằm tuyên truyền, kích động chống phá môi trường hoà bình, ổn định, gây mất uy tín của Đảng, Nhà nước ta. Vì vậy mỗi chúng ta hãy hết sức sáng suốt, tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh phản bác, vạch trần bộ mặt phản động, phản khoa học trước những luận điệu trên./.


CẦN KHÔN KHÉO ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

 Những năm gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các hành vi sai trái, tạo ra những lo ngại rất lớn về tình hình an ninh, an toàn trên Biển Đông. Vấn đề Biển Đông đã trở thành “điểm nóng”, Trung Quốc đã làm phức tạp thêm tình hình và có những hành động leo thang căng thẳng trong khu vực khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại. 

Việc Trung Quốc từ nhiều năm qua liên tục cải tạo phi pháp các bãi đá ở Biển Đông và xây dựng các công trình trái phép trên đó, đồng thời ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là “khu Nam Sa” và “khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được cho là những bước đi đầy toan tính của Trung Quốc nhằm hiện thực hoá tham vọng độc chiếm Biển Đông của nước này thông qua chiến lược Biển xanh 2020. 

Cứ mỗi lần Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông, thì dư luận trong và ngoài nước lại có nhiều ý kiến khác nhau về cách thức ứng phó với mưu đồ của Trung Quốc, thậm chí có tư tưởng dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc, nhưng họ đâu biết rằng “Phò Mỹ, bài Trung” là một hạ sách trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc! (Bài học nhãn tiền vẫn còn đó, điển hình là năm 1974 Mỹ, Trung đã bắt tay, thỏa hiệp ngầm với nhau và Mỹ đã làm ngơ để Trung Quốc chiếm Hoàng Sa từ tay của Việt Nam Cộng Hòa).

Chúng ta cần phân tích đánh giá cho thật khách quan và tỉnh táo. Chúng ta không sợ một cuộc chiến tranh trên biển, chúng ta sẵn sàng làm một “Điện Biên Phủ trên biển” (nếu nó xảy ra), không có nghĩa rằng chúng ta luôn sẵn sàng để tuyên chiến với Trung Quốc, đặt đất nước thường xuyên bên bờ vực chiến tranh. Những lời hô hào kích động cho một cuộc chiến tranh thấy rải rác đâu đó, là vô cùng thiếu lý trí, thậm chí là vô trách nhiệm. Một cuộc chiến tranh với Trung Quốc là điều đầu tiên chúng ta phải tìm mọi cách để tránh khi còn có thể. Tìm mọi cách để tránh, khác với tránh nó bằng mọi giá. Giờ đây là lúc cả dân tộc cần đến một sự gắn kết, cần một sự đồng lòng, cần những bộ óc thông minh, tỉnh táo hơn bao giờ hết. Kẻ thù ngày nay luôn mang bộ mặt bạn bè, thậm chí còn là những người có cùng mục tiêu lý tưởng, luôn luôn vuốt ve bằng những lời lẽ ngoại giao thuộc loại lịch sự nhất. Kẻ thù ngày nay tạo cảm giác là chỗ dựa tin cậy, cùng tồn tại và cùng phát triển nhưng xâm lược bằng “chiến lược mềm”.

Vì vậy, để giải quyết vấn đề Biển Đông hiện nay chúng ta cần tiếp tục duy trì các biện pháp pháp lý và ngoại giao cứng rắn hơn nữa nhằm đối phó với Trung Quốc. Cần đẩy nhanh tiến trình đàm phán thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (COC) – với tính ràng buộc, tạo cơ sở pháp lý cao để ngăn ngừa căng thẳng tại những khu vực tranh chấp ở Biển Đông. 

Chúng ta phải tận dụng thời cơ, trong đó có cả những mâu thuẫn giữa các nước lớn để phát triển. Bài học về tự chủ, tự lực, tự cường hay “mang sức ta mà giải phóng cho ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy toàn dân ta tuyệt đối không thể nóng vội, mơ hồ, để rơi vào âm mưu khiêu khích, tạo cớ của kẻ thù; phải đoàn kết, tỉnh táo, khôn khéo, quán triệt và vận dụng sáng suốt quan điểm, đường lối của Đảng trong công tác đối ngoại, về đối tượng, đối tác trong tình hình mới. Mọi hành động thể hiện tình yêu nước đều quý, nhưng sẽ càng quý hơn khi những hành động đó phải được đặt đúng chỗ, đúng thời cơ, chúng ta cần phải có trái tim nóng và cái đầu lạnh trong nhận định, xử lý tình huống và giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông./.


NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM-NHỮNG THÀNH TỰU KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 Hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tích kỳ diệu trên tất cả các lĩnh vực, đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể, vụ thế đất nước ta trên trường quốc tế được đánh giá cao. Tuy vậy, vẫn còn những tiếng kêu lạc điệu của kẻ lạc loài do bất đồng chính kiến, hậm hực trước những thành quả mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có ngành giáo dục. Chúng thường phát tán các bài viết có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước ta trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo, phủ nhận những thành quả đạt được của hệ thống giáo dục các cấp, bôi nhọ, nói xấu đảng, nói xấu chế độ. Chúng đã đánh đồng những hạn chế, yếu kém trong giáo dục của nước ta trong thời gian qua với toàn bộ nền giáo dục đất nước. Chắc là ở phương trời Tây, chúng bị bịt tai, che mắt nên chỉ thấy hạn chế mà không thấy những ưu điểm, tiến bộ trong nền giáo dục Việt Nam những năm qua, ngang ngược hơn chúng còn dám cho rằng “nền giáo dục của Việt Nam là một nền giáo dục băng hoại không thể cứu vãn” và quy kết, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nên nền giáo dục mới yếu kém. Đến đây thì bộ mặt của kẻ phản động đã lộ nguyên hình, từ giáo dục bọn chúng đã lái sang chính trị, từ phủ nhận thành quả của nền giáo dục sang phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với ngành giáo dục nói riêng, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước nói chung.

Thực tiễn đã cho thấy giáo dục Việt Nam không phải là một nền giáo dục thất bại mà đã có những bước tiến bộ và đạt được những thành tựu quan trọng góp phần xây con người mới và phát triển đất nước. Mặc dù vẫn còn những hạn chế, bất cập trong giáo dục là không thể phủ nhận nhưng không thể vì một vài hạn chế, khuyết điểm mà phủ nhận sạch trơn những cố gắng, nỗ lực của cả một nền giáo dục. Nếu có cái nhìn khách quan, không thành kiến đều có thể thấy rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giáo dục Việt Nam đã thực hiện nhiều cuộc cải cách và đạt được những thành tựu to lớn đó là: Xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục nô dịch của thực dân, đế quốc, chuyên giáo dục theo lối “ngu dân”…; nền giáo dục Việt Nam đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng; chúng ta không chỉ hoàn thành mục tiêu đưa hầu hết trẻ em đúng độ tuổi được đến trường học tập, cơ bản hoàn thành phổ cập trung học cơ sở ở khắp các địa phương trong cả nước, mà chất lượng giáo dục cũng ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực ở tất cả đối tượng học sinh và các cấp học, bậc học với tỷ lệ hơn 99% người trong độ tuổi đi học biết đọc, biết viết. Những năm gần đây, nước ta có nhiều học sinh đạt thành tích cao tại các kỳ Olimpic quốc tế: Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học… Đó là những thành tích được cả thế giới ghi nhận, là kết quả từ sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, của thầy cô, gia đình cũng như của ngành giáo dục Việt Nam.

Giáo dục Việt Nam hướng vào xây dựng những con người có tính trung thực, lòng nhân ái, vị tha và khoan dung cao thượng; xa lạ với sự giả dối, thủ đoạn, nhỏ nhen và đố kỵ, phát triển toàn diện cá nhân. Đó là những con người thật sự tự do, tự chủ, có tư duy độc lập, sáng tạo; không phải là những con người nô lệ, mất tự do và không có khả năng tự chủ. Đó là những con người không lệ thuộc, không thụ động, không ỷ lại, không dựa dẫm và không giáo điều, họ có đủ bản lĩnh để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý; đồng thời ý thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm tham gia làm chủ đất nước, về tinh thần tự do và dân chủ. Những tiêu chí chuẩn mực đó của giáo dục Việt Nam đều chứa đựng các yếu tố văn minh, nhân bản và tự do, ấy vậy mà bọn chúng lại “mù màu” không thấy được điều đó.

Để phát triển nền giáo dục Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng hội nhập quốc tế một mặt thì cần phải kiên định, phát triển các giá trị của nền giáo dục Việt Nam; tích cực khắc phục những hạn chế, yếu kém; tiếp thu, cập nhật các tri thức, giá trị tiến bộ về giáo dục của thế giới. Mặt khác, phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với các lực lượng phản động, thù địch lợi dụng những yếu kém của giáo dục Việt Nam để phủ nhận nền giáo dục, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta./.


ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA LUÔN TÔN TRỌNG VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN, LUÔN LẤY “DÂN LÀM GỐC”

 Yếu tố dân chủ (hay nói cách khác là phát huy quyền làm chủ của nhân dân) là yếu tố hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đảng, Nhà nước và chính quyền có trách nhiệm quan tâm đến việc phát huy quyền làm chủ nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Người luôn nhấn mạnh rằng dân làm chủ và dân là chủ. Nhà nước và Đảng phải chịu  khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, và tẩy sạch bệnh thành tích, quan liêu hay nhũng nhiễu nhân dân. 

Nguyên tắc dân chủ tiếp tục được khẳng định và kế thừa trong các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và hoàn thiện, phát triển sâu sắc hơn ở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa đã khẳng định sâu sắc hơn tinh thần này. Tại điều 27, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định”. Qua đó thể hiện, việc phát huy tính dân chủ biểu hiện qua việc  nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực của đất nước, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức, bầu cử ra và cán bộ, công chức, viên chức là người được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị áp bức đau khổ” và trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài ngày 21/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng về chăm lo đời sống nhân dân của người vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và tổng kết qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực tế, các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong hơn 35 năm đổi mới đã luôn hướng tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”, “Dân hưởng thụ” như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định. Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19 vừa qua, Đảng, Chính phủ đã quyết định nhiều chính sách hỗ trợ dành cho đối tượng người nghèo, các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội là những người có thu nhập thấp. Đồng thời tổ chức Lễ phát động toàn dân tham gia ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 kêu gọi các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài với tình cảm, trách nhiệm tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19 (kết quả tổng số tiền, hiện vật đã ủng hộ là gần 1.600 tỷ đồng), qua đó không những bảo đảm cuộc sống của người dân, giúp họ khắc phục những khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra mà còn thể hiện chính sách đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự chăm lo kịp thời đối với người nghèo, người lao động mất việc, thể hiện được bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 

Từ những nội dung trên cho thấy: Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng chăm lo đời sống nhân dân, luôn lấy “Dân làm gốc”, vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta phải kiên quyết đấu tranh và đấu tranh có hiệu quả, chống lại mọi quan điểm, hành vi, luận điệu của kẻ thù lợi dụng vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, bôi nhọa, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trên không gian mạng, Iternet hiện nay./.


VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG, BẢO ĐẢM TỐT VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN TRONG KHUÔN KHỔ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT, QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN

 Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.

Nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người 

Nhận thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng nghỉ cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. 

Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của LHQ (năm 1977), vào những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Vào những năm 1981, 1982 và 1983 Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con người, bao gồm: Công ước quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị tội ác diệt chủng; Công ước quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác A-pac-thai; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (ICERD); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế về các kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với Tội phạm chiến tranh và Tội phạm chống lại nhân loại; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW). 

Tính đến nay (2023), Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên các công ước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. 

Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước. Điều này là quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đó là, “Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết” . 

Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia, trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. 

Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con người, khi dành trọn vẹn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; cùng với các luật, bộ luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này không chỉ xác lập cơ sở pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã hội), mà còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng cao tinh thần trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người đã được Hiến pháp quy định là Nhà nước có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3 và khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013). 

Bảo đảm quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội 

Nhờ thành tựu trong hoạt động lập hiến, lập pháp, việc bảo đảm quyền con người đã có những bước tiến vượt bậc trên tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội. 

Trên lĩnh vực dân sự, chính trị: Các quyền con người về dân sự, chính trị đã được bảo đảm một cách chủ động trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật. Chẳng hạn, về vấn đề bảo đảm quyền sống, pháp luật không chỉ quy định trừng phạt nghiêm khắc các hành vi tước đoạt mạng sống của con người một cách tùy tiện; nghiêm cấm tra tấn nhục hình; chỉ áp dụng án tử hình với các loại tội đặc biệt nghiêm trọng nhất. 

Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nhờ đường lối đúng đắn được xác định trong các nghị quyết và văn kiện của Đảng  về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp trong suốt 15 năm qua với mục tiêu bảo vệ công lý, quyền con người, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cần phải kể như: “công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và việc bắt, giam, giữ, cải tạo được thực hiện nghiêm minh, dân chủ, công bằng hơn, hạn chế được oan, sai, bỏ lọt tội phạm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” . 

Trên lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa: bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được thực hiện một cách tích cực trong triển khai các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc gia như bảo đảm quyền thoát nghèo; quyền về việc làm, thu nhập; quyền sở hữu; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa… 

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 vừa qua, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách chưa có tiền lệ  về bảo đảm quyền lợi của những người bị tác động của đại dịch thông qua các gói an sinh xã hội hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trong đại dịch bằng những gói phúc lợi hàng chục ngàn tỷ đồng , bảo đảm các quyền con người cơ bản cho người dân, đồng thời gia tăng năng lực hoạt động cho hệ thống an sinh xã hội để ứng phó hiệu quả với những thách thức mang tính toàn cầu cũng như thiết lập những bảo đảm cần thiết cho sự phát triển bền vững với tầm nhìn trung và dài hạn. 

Hiện nay, so với 20 năm trước đổi mới, đời sống của đại bộ phận người dân Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt với sự liên tục cải thiện các chỉ số quan trọng liên quan đến con người như chỉ số phát triển con người (HDI) (Việt Nam hiện xếp thứ 115/191 quốc gia), chỉ số bất bình đẳng giới (GII), tuổi thọ bình quân đầu người, thu nhập bình quân đầu người... Việt Nam cũng là một trong những quốc gia hoàn thành sớm Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của LHQ (MDGs). Theo xếp hạng của LHQ năm 2020 về thực hiện SDGs, Việt Nam xếp thứ 51/193 quốc gia thành viên của LHQ, đạt thành tích cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. 

Về vấn đề bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có HIV/AIDS…luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình thực thi quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước. Trên thực tế quyền của các nhóm này đã đạt được nhiều kết quả tích cực xét theo các tiêu chí, như: chống phân biệt đối xử; tăng cường mức độ sẵn có của các dịch vụ; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội; mức độ bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; chi phí phù hợp… Tại kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, (nhiệm kỳ 2021-2026), số lượng nữ là đại biểu Quốc hội là 151 người, chiếm 30,26% (đạt cao nhất từ trước đến nay ); Tỷ lệ dân tộc thiểu số tham gia Quốc hội khóa XV là 89 người, chiếm 17,84% . Từ năm học 2017 - 2018, đã có 22 tỉnh, thành phố tổ chức dạy học tiếng dân tộc thiểu số (715 trường); 8 ngôn ngữ của dân tộc thiểu số được đưa thành môn học; 6 bộ sách giáo khoa được xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số… 

Việt Nam không chỉ quan tâm thúc đẩy các quyền cơ bản của người dân ASEAN, chú trọng đến nhóm yếu thế như thúc đẩy quyền của phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, gắn kết tình hữu nghị, thống nhất, tạo đồng thuận và hợp tác trong AICHR, trong đó đặc biệt là nỗ lực bảo đảm quyền con người trong đại dịch không những được cộng đồng các quốc gia ASEAN đánh giá cao mà còn tham gia đóng góp tích cực vào định hình các chuẩn mực quốc tế về bảo đảm quyền con người, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương, trong đó Việt Nam đã cùng với Phi-líp-pin và Băng-la-đét trực tiếp soạn thảo Nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền về biến đổi khí hậu và quyền con người đã được chính thức thông qua vào tháng 7/2019  tại trụ sở LHQ ở Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. 

Với những nỗ lực chung trong thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia và khu vực, các nước thành viên ASEAN chính thức đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất đại diện cho ASEAN làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhiệm kỳ 2023 - 2025. Và vừa qua, với số phiếu cao, Việt Nam đã chính thức trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền, nhiệm kỳ thứ 2 (2023 - 2025). 

Như vậy có thể khẳng định rằng những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong suốt 35 năm qua, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người.


TÔN TRỌNG, BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO CỦA NHÂN DÂN LÀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH NHẤT QUÁN, XUYÊN SUỐT CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

 Việt Nam là đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Có thể nói, tôn giáo ở Việt Nam được ví như bức tranh thu nhỏ của tôn giáo trên thế giới, từ các hình thức sơ khai, loại hình tổ chức của các tôn giáo cũng đa dạng, có nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng cùng tồn tại và bình đẳng về vị thế, không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo, ảnh hưởng quyết định đến đời sống xã hội Việt Nam.

Lợi dụng đặc điểm đó, các thế lực thù địch, phản động luôn coi vấn đề dân tộc, tôn giáo là “ngòi nổ” trong mưu đồ chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Họ câu kết với các phần tử cơ hội chính trị, chống đối, cực đoan lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Hằng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ đưa ra các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo trên thế giới, trong đó có nêu một số nội dung nhận định thiếu khách quan, sai lệch dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng và không chính xác về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế tại Việt Nam. Họ cho rằng: Việt Nam vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế khi chính quyền sách nhiễu các tổ chức tôn giáo ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số khu vực ở Đồng bằng sông Cửu Long; sách nhiễu những thành viên của các nhóm tôn giáo tham gia vào các hoạt động vận động nhân quyền hoặc có liên hệ với các cá nhân và tổ chức chỉ trích chính quyền; cản trở việc thực hành tôn giáo của phạm nhân. Đồng thời, nêu quan ngại về một số trường hợp “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”,... đưa Việt Nam vào danh sách “Các nước cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo - SWL”. Lợi dụng việc đó, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị “té nước theo mưa”, ra sức xuyên tạc, bóp méo tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phê phán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.

Mới đây, ngày 09/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt “Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là tài liệu chính thống, kịp thời cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo, chính sách tôn giáo ở Việt Nam và những thành tựu, cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; một trong những công cụ chuyển tải thông tin trung thực tới các nước, các tổ chức quốc tế quan tâm đến lĩnh vực nhân quyền, tôn giáo, làm cơ sở tham chiếu, chứng minh cho nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngay lập tức một số trang báo điện tử thiếu thiện chí, như: VOA, RFI, RFA,… cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối, cơ hội chính trị đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá tiêu cực về Cuốn sách này. Họ không chỉ rêu rao việc cho ra đời Cuốn sách là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam; mà còn tạo ra bức tranh méo mó về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, khi quy chụp: “Việt Nam không hề có tự do, và tự do tôn giáo lại càng không. Hàng loạt các vụ đập phá chùa chiền, nhà thờ để chiếm đất đai, chính quyền cài cắm người vào hàng ngũ tu sĩ để hòng phá hoại và chia rẽ tôn giáo”(!). Đây là những nhận định lố bịch, mang đầy dã tâm chính trị hòng chống phá Đảng, Nhà nước và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân ta.

Những thành tựu thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta cho thấy, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của  nhân dân là quan điểm, chính sách xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Quan điểm đó được thể hiện trong các văn bản của Đảng ngay từ khi mới thành lập, nhất là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã có nhiều đổi mới mạnh mẽ về công tác tôn giáo được ghi dấu bằng nhiều nghị quyết, tiêu biểu như: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, v.v. Trong đó, khẳng định rõ: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng giữ gìn và “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước”; “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật”1.

Quan điểm nhất quán ấy đã được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và các chính sách nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế của người dân, phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này, đều  khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp (năm 2013) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.

Thực hiện các nguyên tắc đã được hiến định, Nhà nước Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Trong đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được kỳ họp thứ 2, Quốc hội (khóa XIV) thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 là dấu son trong lộ trình cụ thể hóa chủ trương nhất quán của Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và đối ngoại, phù hợp với đời sống thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam. Đồng thời, khẳng định với quốc tế rằng, Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong đảm bảo quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Từ quan điểm đến chính sách và thực tiễn đều minh chứng rằng:

Nhà nước Việt Nam luôn bảo đảm trên thực tế sự đa dạng, hòa hợp, bình đẳng giữa các tôn giáo và không có sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. 

Nhà nước luôn bảo đảm và tạo điều kiện để các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo của tất cả các tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định pháp luật. 

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và của đồng bào các dân tộc thiểu số luôn được Đảng, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm. 

Các tổ chức tôn giáo cũng luôn được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội, nhất là trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và hoạt động từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội. 

Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới đất nước, hoạt động và đời sống tôn giáo ở Việt Nam có sự phát triển tích cực: từ sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đến hoạt động của chức sắc và các tổ chức tôn giáo; sự gia tăng số lượng chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo; nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra với quy mô lớn hơn trước thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham dự; các tổ chức tôn giáo được công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân và có những đóng góp tích cực vào đời sống tinh thần của toàn xã hội. Điều đó minh chứng cho chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại; tạo được lòng tin của chức sắc, tín đồ vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, khơi dậy những đóng góp tích cực của các tôn giáo vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đến nay, Việt Nam đã hai lần được tín nhiệm bầu vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc các nhiệm kỳ 2014 - 2016 và 2023 - 2025 là minh chứng thực tế sự thừa nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam và đó cũng chính là minh chứng thuyết phục nhất, đanh thép nhất bác bỏ những luận điệu của các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách quy chụp phiến diện, phủ nhận, xuyên tạc một cách lố bịch về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Có thể nói, quyền con người là giá trị phổ biến; bảo đảm, thúc đẩy quyền con người là một quá trình lâu dài, liên tục và cần sự nỗ lực của mỗi quốc gia, nhưng đối với các nước đang phát triển, thực hiện đầy đủ các chuẩn mực nhân quyền phải là quá trình lâu dài. Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn các giải pháp tối ưu trong việc cân bằng giữa ổn định xã hội với đảm bảo đầy đủ nhân quyền, có quyền xây dựng lộ trình trong việc thực hiện cam kết đối với các điều ước quốc tế về nhân quyền, không thể có sự sao chép, áp đặt các mô hình dân chủ, nhân quyền chung. Đặc biệt, với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nguồn lực còn hạn chế trong khi còn nhiều thách thức trong giải quyết các vấn đề quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được trong thúc đẩy và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua, trước mắt trong năm 2023, cũng như về lâu dài, các cơ quan chức năng cần phối hợp xây dựng và triển khai công tác đối với việc vận động, đấu tranh để Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có cái nhìn đúng đắn, khách quan về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời, định kỳ chủ động cung cấp thông tin cho phía Hoa Kỳ, các tổ chức quốc tế, các cơ quan ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, nhất là trong các dịp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chuẩn bị ra “Báo cáo thường niên” về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo. Các cấp tiếp tục tham mưu, triển khai thực hiện hiệu quả Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cùng với đó, quan tâm hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng hiến chương, điều lệ, pháp luật của Nhà nước; chủ động giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo chính đáng của quần chúng tín đồ; kịp thời nắm bắt tình hình, tâm tư, nguyện vọng của các tổ chức tôn giáo, quần chúng tôn giáo và có hướng giải quyết thấu đáo các vụ việc phát sinh. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo.


SỰ ĐÚNG ĐẮN, NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VỀ THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, MỞ CỬA, HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG TA.

 Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng. Trên cơ sở kế thừa đường lối đối ngoại qua các kỳ đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Nhìn lại đường lối đối ngoại của Đảng trong 35 năm Đổi mới 

Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI (năm 1986), đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối ngoại thời kỳ đổi mới và được nhận thức ngày càng sâu sắc.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác” , Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) lần đầu tiên nêu rõ các thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia - dân tộc. Từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau trong lợi ích quốc gia - dân tộc. 

Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị khóa VI (năm 1988) khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất nước. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước. 

Từ chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm, phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước. 

Với nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế (Đại hội IX) được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội XI). Chủ trương này là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng. 

Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Từ “tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”  (Đại hội VI) đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược” .

Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã góp phần rất quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)… Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có liên kết kinh tế sâu rộng, đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới; kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương khoảng 200% GDP, thu hút khoảng 400 tỷ USD vốn FDI đăng ký, v.v… 

Những thành tựu đối ngoại nói trên là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, trong đó có đóng góp rất quan trọng của đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. 

Trước hết, vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình, nhận diện thời cơ và thách thức để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, thúc đẩy đổi mới tư duy, tìm hướng đi thuận lợi cho phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”. Nhiệm vụ này rất quan trọng, bởi chỉ có “biết mình”, “biết người”, “biết thời thế” mới có thể tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong một thế giới vận động không ngừng, phức tạp và khó lường. 

Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó có đối ngoại. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hòa bình để ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. 

Ba là, tiên phong huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Một trong những lợi ích cơ bản của nước ta hiện nay là phấn đấu thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, phát triển đất nước là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động đối ngoại, theo đó tất cả trụ cột, binh chủng đối ngoại đều nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước, trong đó ngoại giao kinh tế là nòng cốt. Như vậy, cùng với tư duy tiên phong, tư duy phát triển là điểm mới trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII. 

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.

Bốn là, tiên phong mở đường, đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa phương và doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Một điểm mới là Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, bám sát chủ trương, đường lối đối ngoại và phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở đường, đồng hành, hỗ trợ người dân, địa phương và doanh nghiệp tranh thủ tối đa cơ hội, lợi ích và giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế; đồng thời, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. 

Năm là, tiên phong nâng cao vị thế và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín đất nước. 

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “mọi việc thành công bởi chữ đồng”, đối ngoại chỉ có thể thực hiện tốt vai trò tiên phong khi được đặt trong tổng thể đối nội - đối ngoại, có được sự phối hợp chặt chẽ, đoàn kết và đồng thuận của các cấp, các ngành và toàn dân, trong đó điểm đồng ở đây là cùng nhau bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Để xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, bên cạnh tiếp tục củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột, cơ quan đối ngoại, một trong những điều cốt yếu là cần có đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về phong cách và phương pháp làm việc, đổi mới, sáng tạo, ngang tầm với thời đại. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta có nhiều nhà ngoại giao xuất sắc, là những tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, tài trí và phong cách, nghệ thuật ngoại giao. Trước yêu cầu mới về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, cần tiếp tục đặc biệt coi trọng công tác cán bộ đối ngoại, nhất là cơ chế, chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại toàn diện về phẩm chất, trình độ và năng lực. Thế hệ cán bộ đối ngoại và ngoại giao hôm nay phát huy truyền thống vẻ vang, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, không ngừng phấn đấu, nâng tầm trí tuệ, vững vàng, tự tin, kiên định và đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc./.


HIỂU ĐÚNG VỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động luôn triệt để lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chúng phát tán các bài viết, đưa ra các quan điểm xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm “nhân quyền”. Đáng chú ý, ngày 03/8/2023, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài “Chuyên gia nhân quyền lo ngại tư duy siết chặt tự do của quan chức Việt Nam”; ngày 04/8/2023 tán phát bài “Báo cáo nhân quyền – dân chủ 2022: Việt Nam tiếp tục giới hạn quyền chính trị, dân sự”, nội dung xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Việt Nam trong vấn đề bảo đảm quyền con người; vu cáo chính quyền “ngăn cấm” quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân, “vi phạm” tự do lập hội; đồng thời, kêu gọi tự do phát triển các “tổ chức xã hội dân sự”. Vậy, nhân quyền là gì? Và quan điểm của Đảng ta về vấn đề này như thế nào?

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người. Có thể khái quát, quyền con người là các quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.

Việt Nam nhận thức sâu sắc quyền con người là giá trị chung của các quốc gia, dân tộc và giá trị đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được ghi rõ trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948; vì thế tôn trọng, thực thi, bảo vệ nhân quyền là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Chúng ta không chỉ ủng hộ những tư tưởng tiến bộ về quyền con người được Liên hợp quốc khẳng định trong Tuyên ngôn và các văn kiện quan trọng khác, mà còn nỗ lực xây dựng, triển khai các chính sách để bảo vệ, thúc đẩy quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và sự quyết tâm, thực thi đó đã đạt được các kết quả nổi bật, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Và không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam được bình chọn vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 – 2025, đó là nhờ những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được trong thực hiện vấn đề nhân quyền, đúng như nhận định của ông Jean - Pierre Archambault, nguyên Tổng thư ký Hội Hữu nghị Pháp - Việt khi cho rằng: “Bảo đảm tốt quyền con người là một trong những thành tựu của công cuộc Đổi mới ở Việt Nam, những kết quả đạt được trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người của Việt Nam là không thể phủ nhận”.

Tuy nhiên, quyền con người không phải là một khái niệm tuyệt đối và trong một số trường hợp cần phải được hạn chế nhằm đảm bảo trật tự xã hội. Một đặc trưng quan trọng của nhân quyền đó là: Nhân quyền mang tính phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử, văn hóa, quốc gia, dân tộc, tôn giáo là bản chất của quyền con người. Và theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966), một số quyền có thể bị giới hạn vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội, quyền và tự do của người khác ngay cả quyền được sống, quyền tự do đi lại, cư trú, quyền lập hội…

Trên cơ sở các Công ước quốc tế về quyền con người và những yêu cầu thực tiễn Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Khoản 2, Điều 14 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng”. Có thể thấy, Việt Nam không chỉ tôn trọng nhân quyền mà còn tạo điều kiện để nhân quyền vừa được phát huy cao nhất, vừa hoạt động đúng pháp luật, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khoẻ cộng đồng.

Vì vậy, những luận điệu cho rằng: Việt Nam “vi phạm” nhân quyền; “giới hạn” quyền chính trị, dân sự; “ngăn cấm” quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân; “vi phạm” tự do lập hội… chỉ là sự ngụy biện, đánh tráo khái niệm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị rêu rao nhằm đạt được mưu đồ, thủ đoạn chống phá của chúng. Chúng ta, những công dân chân chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cần nhận thức rõ vấn đề này và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch để bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà chúng ta đang thụ hưởng trên cơ sở hiểu biết và thực thi theo đúng hiến pháp, pháp luật./.


NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN INTERNET, MẠNG XÃ HỘI HIỆN NAY

 Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ thông tin nói chung, các trang mạng xã hội nói riêng, nhất là Internet phát triển rất mạnh, trở thành một nhu cầu trong đời sống con người, có ảnh hưởng rất lớn (cả tích cực và tiêu cực) đến người dân Việt Nam nói chung, cán bộ, đảng viên, quần chúng trong quân đội nói riêng. 

Trên thực tế, Internet và các trang mạng xã hội đem lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng, vì tốc độ thông tin rất nhanh, nội dung phong phú, đa dạng… Nếu sử dụng Internet cũng như các mạng xã hội đúng mục đích và phù hợp thì nó mang lại hiệu quả rất lớn cả trong học tập, công tác, sinh hoạt và đời sống xã hội cho mỗi người; đồng thời, sẽ là công cụ hữu hiệu góp phần quan trọng phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến rộng rãi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích do Internet mang lại thì mặt trái, tiêu cực của nó cũng không hề nhỏ. Có vô số những thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc cũng được tán phát lên các trang thông tin điện tử (Website), Blog, mạng xã hội (Facebook, Zalo, Tiktok, Twitter, Yotube,..), trên phần bình luận, phản hồi (Comment) của các báo điện tử.v.v... 

Hiện nay, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng sức mạnh lan truyền của Internet, mạng xã hội như một phương tiện truyền thông đắc lực để đăng tải thông tin xấu độc tán phát trên Internet, mạng xã hội là những thông tin bịa đặt, sai sự thật, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng - sai, thật - giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch. Đó là các dạng thông tin có nội dung không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục như: Kích động đồi trụy, bạo lực, bôi nhọ đời tư, vu khống…; thông tin sai trái, độc hại có tính chất tội phạm tin học như: Lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin, mật khẩu, tán phát vi-rút…; thông tin sai trái có tính chất chính trị như: Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an và gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, đe dọa an ninh quốc gia... tập trung phá hoại trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, phá hoại bản chất, truyền thống tốt đẹp, chức năng và nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam tuyên truyền chống phá các nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng quân đội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.

Thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên Internet, mạng xã hội đối với quân đội hết sức tinh vi như tuyên truyền các nội dung dối trá, lừa bịp; bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những khuyết điểm, sai lầm hoặc lợi dụng những hạn chế, sơ hở trong quản lý, giáo dục bộ đội hiện nay để vu cáo, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của quân đội. Các thông tin dối trá, lừa bịp được tuyên truyền lặp đi, lặp lại nhiều lần trên nhiều diễn đàn, kéo dài theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, dần dần cũng sẽ tác động tâm lý đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng - những người nhẹ dạ, cả tin.

 Bên cạnh đó còn lập ra hàng trăm trang web, các blog, phần lớn máy chủ đặt ở nước ngoài, để thu thập, bịa đặt, nhào nặn, trộn lẫn tốt - xấu, thật - giả, tán phát những thông tin, tài liệu, hình ảnh xấu độc, tung ra các luận điệu vu cáo, bình luận thâm độc, kêu gọi trắng trợn, thu hút sự phụ họa của những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, chống phá quân đội ta. Chúng tấn công công khai, liên kết với nhau, thành “phong trào”, liên tục, với cường độ mạnh, hình thức đa dạng, tạo sức ép dư luận làm cho Đảng, Nhà nước, quân đội phải “điều chỉnh”, nhượng bộ theo ý đồ của chúng. Điểm mới nổi lên trong các hoạt động chống phá quân đội gần đây đó là, chúng xuyên tạc thông tin mới, “làm mới” thông tin cũ; triệt để lợi dụng những thông tin về những mặt trái, tiêu cực trong quân đội, chúng phát tán trên mạng xã hội những vụ việc và những sai phạm ở một số đơn vị; bôi nhọ, nói xấu một số cán bộ, tướng lĩnh quân đội cả đương chức cũng như đã nghỉ hưu, nhằm làm mất uy tín quân đội, phai nhạt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ tình đoàn kết quân dân; lợi dụng những ý kiến, quan điểm sai lệch từ các nguồn tin trên một số cơ quan truyền thông đại chúng của ta gắn với những bình luận chủ quan, bóp méo, xuyên tạc sự thật, thổi phồng và gây nhiễu loạn thông tin, làm “nóng” tình hình, kích động tâm lý đám đông nhằm tập hợp, lôi kéo, kích động nhiều phần tử khác trong xã hội cùng tham gia. Từ đó, chúng quy chụp những hạn chế, tiêu cực, cá biệt thành phổ biến và quy kết thành bản chất, hòng tạo tâm lý bán tín, bán nghi trong cán bộ, đảng viên, quần chúng. 

Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước, dưới sự chỉ đạo của thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thời gian vừa qua, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ nhận diện, hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng. Một số sự kiện, hình ảnh lan truyền trên internet và các trang mạng xã hội đã được cơ quan chức năng cung cấp thông tin chính thống, có sự phân tích, định hướng dư luận kịp thời. Lực lượng đấu tranh trên không gian mạng của các cơ quan, đơn vị bám sát kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên, có nhiều bài viết, chia sẻ, bình luận với nội dung đa dạng, tính định hướng tốt, được cộng đồng mạng tin tưởng và đánh giá cao, trong đó tập trung khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; giá trị của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đưa nhanh các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Nhiều bài viết đấu tranh trực diện nhằm vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; tô đậm truyền thống quân đội và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đề xuất các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ…

Bên cạnh kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, lực lượng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng của một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự chủ động, nhạy bén, sắc sảo. Một số sự việc đã bị kẻ xấu lợi dụng, lan truyền trên các trang mạng xã hội nhưng chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời. Hình thức tiến hành chủ yếu vẫn là chia sẻ các bài viết có sẵn trên mạng, trong khi đó chưa có nhiều bài viết có chiều sâu về lí luận và thực tiễn để đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch, nên tính định hướng và sức lan tỏa không cao. Nhiều đồng chí chưa hiểu sâu sắc đặc điểm, âm mưu, thủ đoạn của các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; sử dụng dẫn chứng, lí lẽ còn chung chung, thiếu sức cuốn hút, thiếu thuyết phục nên chưa tạo được sự chú ý rộng rãi đối với cộng đồng mạng. Một số cơ quan, đơn vị chưa phát huy hết vai trò của các lực lượng, phương tiện trong nhận diện và đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đặt ra những vấn đề cấp thiết nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, lí luận của Đảng, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng đấu tranh chống các quan điểm sai trái trên không gian mạng của các cơ quan, đơn vị quân đội có vai trò ngày càng quan trọng. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng này, cần phải thực hiện tốt một số giải pháp như sau:

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tinh thần chủ động nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội cho cán bộ, đảng viên, quần chúng. Trước hết, cần phát huy vai trò của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần tích cực, chủ động cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội; giáo dục, quán triệt sâu sắc các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương và quân đội có liên quan đến nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch làm cho mỗi người thống nhất nhận thức: nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên và cấp thiết của mọi cá nhân, tổ chức, lực lượng trong toàn quân và không một cá nhân, tổ chức, lực lượng nào được xem nhẹ mặt trận đấu tranh này, khắc phục mọi biểu hiện né tránh đấu tranh hoặc dung hòa, thỏa hiệp về tư tưởng, văn hóa. 

Phải tạo nhận thức đúng đắn, nhận diện đầy đủ, khoa học, khách quan về tính hai mặt của Internet và mạng xã hội; âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động chống phá trên Internet, mạng xã hội của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó trang bị kiến thức cần thiết để mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, “miễn dịch” với những thông tin xấu độc, đồng thời xây dựng cho mỗi người có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc; tích cực, chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh và đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội. Thường xuyên nêu cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, khắc phục các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội; thực hiện nghiêm Nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng Internet và thông tin trên mạng, Quy chế quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet trong quân đội, Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và Những điều đảng viên không được làm, không để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc làm ảnh hưởng đến hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.  

Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, mài sắc ý chí chiến đấu và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị, đồng thời trang bị cho họ phương pháp xem xét, tiếp cận thông tin trên Internet, mạng xã hội một cách đúng đắn, khoa học. Chủ động làm tốt công tác tư tưởng, nhất là trong quản lý bộ đội; nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh, hậu phương gia đình của cán bộ, đảng viên, quần chúng và có biện pháp động viên, uốn nắn kịp thời, không để bị bất ngờ, ảnh hưởng đến sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội trong mọi tình huống. Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”; từng cán bộ, đảng viên, quần chúng phải có cam kết việc tu dưỡng rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo sự chuyển biến rõ nét về nhân cách quân nhân theo các chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.  

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong nhận diện và đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội hiện nay. Để thực hiện tốt giải pháp trên, các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm và sự cần thiết phải nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Trong đó, phải đưa việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ hoặc chuyên đề của cấp uỷ, tổ chức đảng và nội dung sinh hoạt thường xuyên của tất cả các tổ chức, sát với đặc điểm, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị; khi bình xét, phân loại, đánh giá chất lượng các tổ chức đảng, các cán bộ, đảng viên phải gắn với kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ này. Đồng thời, thường xuyên nắm bắt, đánh giá đúng thực trạng tình hình đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội ở cơ quan, đơn vị mình; chỉ rõ ưu điểm và khuyết điểm, nguyên nhân của ưu điểm, khuyết điểm, những vướng mắc, bất cập để kịp thời có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, sát đúng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội. 

Coi trọng việc tổng kết thực tiễn, công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội những năm vừa qua. Qua đó, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm đấu tranh đã tích lũy được, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện lịch sử mới. Cần đề phòng và khắc phục sự bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, thoát ly thực tế trong nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội hiện nay, nhất là khắc phục kịp thời tình trạng “giao khoán” cho các Ban Chỉ đạo 94, Bộ phận giúp việc, bộ phận đấu tranh chuyên sâu hoặc cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp.

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn Hội đồng quân nhân và các tổ chức quần chúng như đoàn thanh niên, công đoàn, phụ nữ trong việc vận động cán bộ, chiến sĩ, hội viên, đoàn viên hưởng ứng và thực hiện tốt các mục tiêu, chủ trương, biện pháp của cấp ủy, cơ quan, đơn vị đề ra. Theo chức năng và nhiệm vụ của mình, Hội đồng quân nhân và các tổ chức quần chúng cần tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp những nội dung, biện pháp, hình thức đấu tranh; hướng dẫn cụ thể cho đoàn viên, hội viên về cách thức tiếp nhận và xử lý thông tin trên Internet, mạng xã hội, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị vững vàng, có chính kiến và sẵn sàng tham gia đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch khi tham gia các diễn đàn, mạng xã hội. Cần vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp để tuyên truyền, giáo dục và vận động cán bộ, chiến sĩ, hội viên, đoàn viên phát huy tính xung kích, sáng tạo, tích cực tham gia và đẩy mạnh cuộc đấu tranh đi vào chiều sâu, đồng thời không tham gia vào các hội, nhóm, đoàn thể bất hợp pháp trên Internet, mạng xã hội, không tán phát hoặc chia sẻ những thông tin có nội dung xấu độc. Qua đó góp sức cùng với cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội.

Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thường xuyên nắm chắc tình hình, chăm lo công tác giáo dục chính trị, quản lý bộ đội. Tăng cường hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, không để các thế lực thù địch thâm nhập phá hoại nội bộ, mua chuộc, lôi kéo cán bộ, đảng viên, quần chúng. Thực hiện nghiêm túc những quy định về kỷ luật, quy chế của tổ chức Đảng, nội quy của các cơ quan, đơn vị liên quan đến bảo vệ an ninh nội bộ, bí mật nhà nước, bí mật quân sự, chống việc lộ, lọt thông tin, các hiện tượng móc nối, cài cắm, xâm nhập hoặc thẩm thấu quan điểm xấu từ bên ngoài vào quân đội dưới mọi hình thức; phấn đấu đảm bảo tuyệt đối an toàn về an ninh, chính trị, tư tưởng của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Kịp thời phát hiện và khắc phục những thiếu sót trong cơ chế, chính sách về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ. Phát hiện, xử lý kịp thời các quan điểm sai trái, thù địch, biến chất vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước và kỷ luật quân đội. 

Kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện dao động, ngộ nhận, mơ hồ trước các nguồn thông tin ngược chiều với quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; kiên định không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, “phi chính trị hóa” quân đội dưới bất cứ hình thức nào; kịp thời phát hiện các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, kích động và giữ vững thế chủ động trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, các cơ quan chức năng, cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ mạng Internet, tăng cường theo dõi, kịp thời phát hiện, xử lý và khống chế có hiệu quả các trang mạng có nội dung phản động nhằm ngăn chặn tận gốc nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội; không để lộ, lọt, sơ hở về đăng tải thông tin theo quy định của Nhà nước và quân đội, qua đó từng bước làm chủ thế trận tiến công trên Internet, mạng xã hội. 

Thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và làm tốt công tác khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến, các cách làm hay, mô hình tốt, sáng tạo, hiệu quả ở cơ quan, đơn vị mình. Trong kiểm tra, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm phải phát hiện được những ưu, khuyết điểm, những mô hình, biện pháp cách làm sáng tạo, hiệu quả, những vấn đề bất cập nảy sinh do thực tiễn đặt ra; biện pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; rút ra được những bài học kinh nghiệm trong công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Sau kiểm tra, sơ kết, tổng kết phải có các hình thức biểu dương, động viên khen thưởng kịp thời. Trong triển khai nhân rộng điển hình tiên tiến, các cách làm hay, mô hình tốt, sáng tạo, hiệu quả cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức chặt chẽ, có tính kế hoạch cao, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “nhân” điển hình.

Thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội hiện nay. Trước hết, các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp cần nhận thức sâu sắc việc đổi mới, đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội là một yêu cầu cấp thiết, cần tiến hành thường xuyên, liên tục trên cơ sở giữ vững nguyên tắc: Chủ động tiến công và kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng, có luận cứ khoa học với các quan điểm, lý luận phản động, phản khoa học, các hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch; gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính. Kết hợp chặt chẽ giữa hình thức đấu tranh trực tiếp và gián tiếp, trong đó cần coi trọng hình thức đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội bằng nhiều con đường, phương thức khác nhau. Phải tiến hành đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng ở từng cơ quan, đơn vị, trong mỗi tổ chức và cá nhân, coi đó là phương pháp tự bảo vệ mình, đồng thời  hình thành một mặt trận chung, thống nhất trong toàn quân tham gia đấu tranh. Phát huy vai trò hoạt động của tuyên truyền miệng, qua đội ngũ báo cáo viên, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp để phê phán các quan điểm sai trái, cung cấp và định hướng thông tin đúng đắn cho mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng ngay từ cơ sở. 

Cơ quan chức năng cần thành lập một Website với tư cách là cổng thông tin, diễn đàn mở để trao đổi các ý kiến, quan điểm khác biệt. Đây là diễn đàn mở, để trực tuyến trao đổi, tranh luận, giải thích với những người có ý kiến, quan điểm khác biệt hoặc đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Đây cũng là diễn đàn để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cần khuyến khích các cán bộ, đảng viên, quần chúng trong quân đội xây dựng các trang Blog cá nhân và tham gia trên các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter tạo diễn đàn tranh luận, trực tiếp đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch.

Trước mỗi sự kiện phức tạp, nhạy cảm, tác động trực tiếp đến nhận thức, tư tưởng và tình cảm của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong toàn quân, các cơ quan chức năng cần bám sát định hướng của cơ quan cấp trên, kịp thời chỉ đạo báo chí về nội dung tuyên truyền và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan báo chí, bảo đảm đánh đúng, đánh trúng mục tiêu, đối tượng, tạo hiệu ứng tích cực trong dư luận xã hội. Để phát huy sức mạnh tổng hợp trên mặt trận tuyên truyền, các cơ quan báo chí quân đội cần tăng cường phối hợp, xử lý và cung cấp thông tin, tư liệu, tài liệu, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Đồng thời, chủ động xây dựng lực lượng “phản ứng nhanh” chuyên trách, nòng cốt, chuyên sâu, để khi cần thiết có thể mở các chiến dịch tuyên truyền, đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch trên các phương tiện truyền thông và trên Internet, mạng xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.

Phát huy vai trò của các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ, giảng viên ở các học viện, nhà trường, cán bộ công tác ở các cơ quan nghiên cứu chiến lược và cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, tổ chức biên soạn thành các chuyên đề, tài liệu, luận cứ đấu tranh, tập trung vào những vấn đề bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ quân sự - quốc phòng; phòng, chống “phi chính trị hóa” quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Phát huy vai trò của các lực lượng đấu tranh chuyên sâu, từng bước hiện đại hóa điều kiện, phương tiện để nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội. Nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội trong quân đội ta hiện nay là một vấn đề rất khó khăn và phức tạp, nhất là khi các thế lực thù địch ra sức công kích, chống phá quyết liệt với tần suất ngày càng lớn và những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Điều đó đòi hỏi phải có một lực lượng chuyên sâu thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhạy bén, sắc sảo, trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng, có kiến thức và trình độ cơ bản về công nghệ thông tin, kỹ năng tìm kiếm tư liệu, khai thác và cập nhật thông tin, có khả năng viết tin, bài để tuyên truyền các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, gương người tốt việc tốt và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch… giữ vai trò chủ đạo, định hướng và làm nòng cốt trong tổ chức đấu tranh. Đó chính là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp và lực lượng chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trong quân đội. Ngoài ra phải kể đến đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị; khoa học xã hội và nhân văn quân sự; cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực xuất bản, văn học, nghệ thuật… 

Hiện nay, lực lượng chuyên sâu đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội, nhất là Ban Chỉ đạo 94, Bộ phận giúp việc và “Lực lượng 47” các cấp đã được cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiện toàn, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, từng bước bảo đảm trang bị, phương tiện phục vụ đấu tranh. Để phát huy hiệu quả hoạt động của lực lượng này, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, sử dụng lực lượng chuyên sâu ở các cơ quan chiến lược, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên Internet, mạng xã hội, đồng thời bám sát sự chỉ đạo, định hướng của trên, tập trung viết các tin, bài chuyên sâu đấu tranh trên các trang Blog. Lực lượng chuyên sâu ở các cơ quan, đơn vị còn lại chủ yếu tập trung vào việc viết các Comment ngắn gọn; đăng các trạng thái phản đối đấu tranh trực diện trên các trang Fanpage, Facerbook; chia sẻ, lan tỏa các bài viết có nội dung chuyên sâu về đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các cơ quan báo chí quân đội, các bài đăng trên các Blog của các cơ quan chiến lược, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu... qua đó nhằm tạo ra làn sóng đấu tranh sâu rộng trên Internet, mạng xã hội. 

Coi trọng triển khai các giải pháp kỹ thuật chặn lọc, bóc gỡ, vô hiệu hóa thông tin xấu độc; thông báo, cảnh báo các nguy cơ mất an toàn thông tin và các khuyến cáo đối với người dùng...; tổ chức tốt các lớp tập huấn ở các cấp về, quản lý, sử dụng, phát huy vai trò trang bị máy tính ảo và công nghệ sử dụng các giải pháp kỹ thuật phục vụ đấu tranh của lực lượng chuyên sâu; xây dựng, thiết lập các kênh thông tin, các “Nhóm bí mật” trên Facebook... góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực lượng đấu tranh trên Internet, mạng xã hội.  

Coi trọng đầu tư xây dựng, từng bước hiện đại hóa các cơ sở vật chất kỹ thuật, đầy đủ, kịp thời cho các nhà nghiên cứu, lực lượng đấu tranh chuyên sâu để họ có điều kiện sáng tạo khoa học cũng như tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội. Đặc biệt, cần quan tâm đầu tư kinh phí thích đáng cho các cơ quan chức năng thực hiện các dự án sản xuất các phần mềm, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để ngăn chặn các Website, Blog, báo điện tử, thư điện tử độc hại trên Internet, mạng xã hội.