Tuyên ngôn độc
lập ngày 2-9-1945 không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn
là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam, với mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, khơi nguồn sáng tạo và
soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây
dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Hơn thế nữa, “Tuyên ngôn độc lập” là sự mở đầu kỷ
nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới,
đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định trong “Tuyên ngôn độc lập” bằng một sự “suy rộng ra”: Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do đã trở thành một chân lý mang tính thời đại sâu sắc. Bản
Tuyên ngôn độc lập là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh
hùng, bất khuất và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của cả một
quá trình trăn trở, suy ngẫm trong hành trình tìm đường cứu nước qua nhiều
quốc gia trên thế giới của Người.
Nội dung của
Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu,
làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý
xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những
câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp?
Điều này cần phải hiểu và lý giải như sau:
Điều này cần phải hiểu và lý giải như sau:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã
tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt
của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng
giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã giành được.
Đây là những thành quả văn hoá của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài
người, trong đó đã khẳng đinh những quyền cơ bản của con người. Đó là
"quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” … “Người ta sinh
ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”… Đây là những tư
tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và
nước Pháp. Dẫn dắt từ sự kiện này để Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận nhằm
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế đối với cuộc cách mạng của nhân
dân Việt Nam.
Hai là, trên
nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách
mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp
trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển
của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là
mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân
tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ
và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương
cao.
Ba là, đi sâu
nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai
bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra
bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư
tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một
nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa
sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên
tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.
Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.
Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.
74 năm đã trôi
qua, nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn đã và đang khơi nguồn sáng tạo soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển mới. Vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh./.
Văn Hoan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét