Hiện nay, một số người
cố tình tán dương cho luận điệu: Quân đội chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chứ
không có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và thể chế chính trị tổ chức, nuôi
dưỡng quân đội đó. Thậm chí, có quan điểm còn cho rằng, với tên gọi “Quân đội nhân
dân”, nghĩa là Quân đội chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhân dân, chứ không
phải trung thành, bảo vệ Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là những
luận điệu không thể chấp nhận được.
Phải khẳng định rõ
ràng rằng, đó không phải là những “phát kiến mới” của các nhà “dân chủ”, tự cho
mình quyền thay mặt nhân dân để “tranh đấu cho tự do” như họ từng ngộ nhận; lại
càng không phải là sự ngây thơ về chính trị, sự sai lầm về khoa học. Thực chất,
đây là một sự ngụy biện về chính trị để thực hiện mưu đồ của những phần tử cơ
hội, xét lại, bọn giả nhân, giả nghĩa nhằm phủ nhận vai trò của Quân đội ta.
Lịch sử nhân loại đến
nay đã trải qua ba hình thái kinh tế - xã hội, và ngày nay đang quá độ sang
hình thái kinh tế - xã hội thứ tư - hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có ba hình
thái kinh tế - xã hội (chiếm hữu nô lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa) gắn liền
với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đối kháng giai cấp, nhà nước
và chiến tranh. Tương ứng với nó là các kiểu tổ chức ra các lực lượng vũ trang
(quân đội, cảnh sát) nhằm phục vụ cho thể chế chính trị tương ứng với các kiểu
nhà nước đó. Rõ ràng, ngay từ khi mới xuất hiện (trong xã hội chiếm hữu nô lệ),
dù hình thức tổ chức còn rất giản đơn, với những vũ khí, trang bị hết sức thô
sơ, nhưng quân đội đã gắn bó chặt chẽ với giai cấp, nhà nước và là công cụ của
giai cấp, nhà nước nhằm phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của chính giai cấp,
nhà nước đó. Điều đó có nghĩa không và không thể có quân đội đứng ngoài giai
cấp, nhà nước, mà chỉ là công cụ bạo lực của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra
nó mà thôi.
Trong xã hội hiện đại,
bất kể là nước lớn hay nhỏ, phương Đông hay phương Tây, không có quốc gia nào
không do một đảng chính trị cầm quyền, dù quốc gia đó tồn tại ít đảng hay nhiều
đảng. Vì thế, khi xem xét một xã hội ít hay nhiều đảng, không nên nhìn một cách
đơn giản về số lượng các đảng phái trong quốc gia đó. Ở Mỹ hiện nay, ngoài hai
đảng thay nhau cầm quyền là đảng Dân chủ và Cộng hòa, vẫn tồn tại nhiều đảng
phái khác nhỏ hơn. Nhưng thử hỏi các đảng phái đó thuộc giai cấp nào, đại diện
cho quyền lợi của giai cấp nào trong xã hội, nếu không phải là giai cấp tư sản?
Tương tự như vậy, ở Đức là đảng CDU và SPD,… ở Pháp là đảng Xã hội và Cộng
hòa,… ở Anh gồm đảng Bảo thủ, Công đảng, Đảng Dân chủ tự do, v.v. Gần ta nhất,
có Thái Lan gồm hai đảng lớn là đảng Dân chủ (phe Áo vàng) và Pheu Thai (phe Áo
đỏ), v.v. Nhưng thử hỏi các đảng phái đó có đại diện cho những người lao động,
người công nhân? Các đảng phái đó phải chăng không nắm quân đội, với tính cách
là công cụ bạo lực phục vụ mục đích của mình?
Rõ ràng, không có và
không thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng chính trị cầm
quyền, dù đảng ấy là đảng nào trong xã hội tư sản. Ở một số quốc gia, quân đội
còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương nhiên cũng là
người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền
Thực tiễn cho thấy,
trong các cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội xảy ra gần đây ở Trung Đông, Bắc
Phi, U-crai-na, xa hơn là cuộc khủng hoảng dẫn tới sự sụp đổ của các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây, quân đội luôn là đối tượng để các
lực lượng chính trị tranh thủ, lôi kéo, nhằm biến nó thành công cụ giành và giữ
chính quyền. Ở nhiều quốc gia, khởi đầu của các cuộc đảo lộn xã hội là những
cuộc binh biến. Nếu đi sâu nghiên cứu thì ở các quốc gia đó, trong hoặc đằng
sau quân đội, lực lượng làm đảo chính vẫn là những tổ chức chính trị, những
đảng chính trị đang hoạt động, cùng sự can thiệp của những lực lượng chính trị
từ bên ngoài, nhằm định hướng cuộc binh biến theo các “giá trị” của họ.
Bất kỳ một tổ quốc nào,
cũng được hình thành từ hai phương diện: tự nhiên - lịch sử và xã hội. Về
phương diện tự nhiên - lịch sử, tổ quốc gắn liền với lãnh thổ cư trú của
các cộng đồng người trong lịch sử, bao gồm: vùng đất, vùng trời, vùng biển,
đảo, v.v. Về mặt xã hội, tổ quốc bao giờ cũng gắn với một thể chế
chính trị nhất định, đại diện cho xu hướng phát triển của tổ quốc đó. Lịch sử
Việt Nam và thế giới chứng minh rằng, không có và không thể có một tổ quốc
chung chung, trừu tượng, mà bao giờ cũng gắn với một thể chế chính trị nhất
định, cho dù đó là thể chế chính trị nào, phục vụ quyền, lợi ích của giai cấp
nào. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như bất cứ một quân đội nào trên thế giới
đều có chức năng bảo vệ Tổ quốc. Đây là một sự thật hiển nhiên, không bàn cãi.
Nhưng nếu quan niệm bảo vệ tổ quốc chỉ là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
để rồi kết luận Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
(phương diện tự nhiên - lịch sử), chứ không có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước
và chế độ xã hội chủ nghĩa là một sự sai lầm tai hại cả về phương diện học
thuật lẫn phương diện chính trị, xã hội. Dẫu đó là vô tình hay cố ý thì cũng đã
cổ súy cho những luận điệu sai trái, phản động nhằm chống phá sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta.
Trên một phương diện
cao hơn, bảo vệ tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với bảo vệ thể chế chính trị của
tổ quốc ấy, không có bảo vệ tổ quốc chung chung, phi lịch sử, phi giai cấp.
Trung thành với tổ quốc, trung thành với hiến pháp cũng chính là trung thành
với thể chế chính trị đó. Quan điểm chỉ bảo vệ Tổ quốc chứ không bảo vệ Đảng -
với tính cách là người đại diện cao nhất của thể chính trị đó là một sự bịa đặt
trơ trẽn, một lập luận vô nguyên tắc, phi hiện thực.
Quân đội nhân dân Việt
Nam có mục tiêu cùng toàn Đảng, toàn dân giành độc lập dân tộc, đưa dân tộc ta
thoát khỏi ách nô lệ và lệ thuộc vào ngoại bang. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác
Hồ, Quân đội ta là lực lượng nòng cốt đã đánh thắng hai đế quốc sừng sỏ, mở ra
một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội. Thử hỏi, nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam, không có Quân đội nhân
dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, giáo dục và rèn luyện thì
tương lai dân tộc đi về đâu? Thiết nghĩ, đây là một câu hỏi rất dễ trả lời, một
sự thật hiển nhiên. Thế nhưng, nhiều người vẫn cố tình không hiểu. Sinh thời,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần nhận được câu hỏi của các tướng lĩnh và
giới nghiên cứu quân sự thế giới rằng, vì sao Quân đội nhân dân Việt Nam, từ
không một tấc sắt trong tay, lại đánh thắng hai đế quốc to trong những cuộc
chiến tranh không cân sức? Đại tướng đã khẳng định: Sẽ không tìm được câu trả lời
cho câu hỏi này, nếu không nhìn vào chiều dày lịch sử dân tộc và đường lối cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghĩa là không thể
hiểu được bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam
và cả sự sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì độc lập dân tộc, nếu không đặt trong
mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam. V.I. Lê-nin đã từng nhắc nhở chúng ta
rằng: giai cấp vô sản muốn là giai cấp thống trị và nếu nó thực sự thống trị,
thì nó phải tỏ rõ điều đó bằng tổ chức quân sự của mình. Không có một quân đội
trung lập, quân đội đứng ngoài chính trị, chỉ có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, dù
cho quân đội đó là của giai cấp nào, phục vụ cho thể chế chính trị nào, ở những
thời điểm lịch sử nào. Quân đội bao giờ cũng là của một giai cấp, một nhà nước
nhất định, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của giai cấp, nhà nước đó.
Luận điệu quân
đội chỉ bảo vệ tổ quốc không chỉ là một sự ngây thơ về chính trị, sự
ngụy biện, phản khoa học, phi thực tiễn, mà còn là một sự tuyên truyền nguy hại
về chính trị, nhằm phá vỡ nền tảng chính trị của Quân đội, làm cho Quân đội mất
phương hướng, mục tiêu chiến đấu, không còn khả năng làm nòng cốt cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, giữ vững sự ổn định chính trị, tạo cớ cho sự can thiệp từ bên
ngoài hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, cần phải đấu
tranh, bác bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét