Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2023

VỊ TRÍ, VAI TRÒ NGÀNH TƯ PHÁP TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ NỀN TƯ PHÁP NHÂN DÂN


Trong suốt những năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân, Bộ Tư pháp được giao trọng trách xây dựng một nền tư pháp nhân dân, quản lý toàn diện các mặt hoạt động tư pháp (theo nghĩa rộng), chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ của cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự và thủ tục tố tụng, tổ chức và quản trị các Tòa án, việc truy tố tội phạm, tư pháp công an, thi hành các án phạt, quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân, quản lý các viên chức Tòa án, viên chức ngạch tư pháp, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại, hỗ giá viên, phụ trách công việc quốc tịch, thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp và uỷ thác và ủy thác tư pháp với nước ngoài.

Đất nước không thể một ngày không có luật pháp, vì vậy, công việc xây dựng pháp luật được Ngành Tư pháp chú trọng ngay từ những ngày đầu của chính quyền non trẻ. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 về việc giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở cả ba miền Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc nếu những luật lệ ấy không trái với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và không phương hại đến độc lập. Sắc lệnh gồm 6 chương với 16 điều quy định cụ thể các luật và từng điều khoản được tạm thời giữ nguyên trong các luật lệ hiện hành như Luật Hộ, Luật Thương mại, Luật Hình cũng như quy định về tố tụng và một số điều khoản chung để hướng dẫn thực hiện. Đồng thời, về tổ chức thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp với chức năng cơ bản là bảo đảm quyền dân chủ của con người, thông qua những quy định pháp luật về thẩm quyền trong việc bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, giam, tha phạm nhân; thẩm quyền tổ chức các Tòa án dân sự, thương sự, hình sự, công việc thực hiện các hiệp định tương trợ và ủy thác tư pháp với nước ngoài; thẩm quyền tổ chức và quản lý các chức danh tư pháp khác nhau; lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ của Ngành Tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán để chuẩn bị thiết lập hệ thống Tòa án trên cả nước. Cụ thể:

- Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy định về tổ chức các đoàn thể luật sư. Sắc lệnh gồm 7 điều, theo đó quy định tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ và tổ chức hoạt động theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930. Tuy nhiên, có một số quy định sửa đổi như: Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án Quân sự… Những luật sư đã tập sự được 18 tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một Văn phòng.

- Trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán. Sắc lệnh gồm 2 chương với 114 điều quy định về tổ chức của Ban Tư pháp xã, Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm và các ngạch thẩm phán, việc tuyển bổ các thẩm phán, đặc quyền và nghĩa vụ của các thẩm phán, kỷ luật, tạm quyền, đổi chức vị, y phục các thẩm phán và tổng lệ. Theo Sắc lệnh này, nền tư pháp mới của nước ta được tổ chức trên hai nguyên tắc: (i) Tư pháp độc lập với hành chính (Điều 47 Sắc lệnh số 13/SL quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào công việc tư pháp”); (ii) Nhân dân tham gia việc xét xử (nguyên tắc này được thể hiện ở cấp xã, nhân viên phụ trách công việc tư pháp đều do Hội đồng nhân dân xã trực tiếp bầu ra. Ở cấp tỉnh và kỳ, dưới danh nghĩa phụ thẩm nhân dân, nhân dân được tham dự vào việc xử án kể cả tiểu hình và đại hình. Đối với các vụ đại hình, phụ thẩm nhân dân không những quyết đoán về tội trạng mà còn quyết đoán cả về hình phạt).

Trong năm 1947, các Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần I, II và III đã được tổ chức nhằm giúp cho Bộ Tư pháp nắm sát hơn về tình hình tư pháp trong cả nước, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết nhiều vấn đề chuyên môn pháp lý và kinh nghiệm thực hành. Đặc biệt, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ III tổ chức vào cuối tháng 9 năm 1947 dưới sự chủ trì trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã thảo luận và quyết nghị về một số vấn đề quan trọng như:

 (1) Việc bảo đảm tự do cá nhân và chế độ lao tù; (2) việc tổ chức tư pháp trong các vùng bị quân địch chiếm đóng; (3) nới rộng thẩm quyền cho các Tòa án; (4) chế độ cho các luật sư trong thời kỳ chiến tranh; (5) vấn đề tư pháp công an...
Để ghi nhận những đóng góp to lớn của Ngành Tư pháp đối với chính thể dân chủ nhân dân, tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV (tháng 02 năm 1948) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư thăm hỏi các đại biểu tham dự Hội nghị. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong cuộc kháng chiến này, các bạn đã góp một phần lực lượng lớn. Từ Bộ trưởng, Thứ trưởng đến toàn thể nhân viên, ai cũng chịu khổ, chịu khó, tận tụy hy sinh, để làm tròn nhiệm vụ. Đó là một sự vẻ vang cho giới tư pháp ta”. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể dân chủ của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai.

 Với định hướng đó, ngay trong tháng 12 năm 1948, Bộ Tư pháp đã mở các lớp huấn luyện bổ túc cho thẩm phán sơ cấp. Theo đó, mỗi khóa học dự định 3 tháng, các thẩm phán sơ cấp đều bắt buộc phải lần lượt theo học tùy chỉ định của các Giám đốc tư pháp liên khu và chỉ những thẩm phán sơ cấp hạng nhất đã trúng tuyển kỳ thi này mới được ghi tên để thi lên ngạch đệ nhị cấp.

Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, phát huy truyền thống của Tư pháp kháng chiến, trong những năm đầu kiến thiết đất nước ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà, Ngành Tư pháp tiếp tục nỗ lực giúp Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật, chỉ đạo nghiệp vụ công tác tư pháp về xét xử, công tố và các vấn đề liên quan đến tư pháp công an; tiếp tục củng cố bộ máy nhà nước, phát huy quyền tự do, dân chủ của công dân trong xã hội mới, khẳng định được vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị và đời sống xã hội./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét