Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2023

Đấu tranh với những luận điệu vô ơn, bội nghĩa

 Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, nhân dân Việt Nam không bao giờ quên công lao của những thế hệ đã hy sinh xương máu, đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Bất chấp đạo lý, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn để đánh tráo, xuyên tạc bản chất các cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Việt Nam, hạ thấp giá trị độc lập, tự do, phủ nhận sự hy sinh của các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng nhằm kích động, chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Những luận điệu xảo trá


Thực tế, không chỉ dịp 27/7 mà hoạt động đền ơn đáp nghĩa đã trở thành truyền thống văn hoá với mọi tầng lớp nhân dân, ở khắp các vùng, miền đất nước. Hiện nay các chủ trương, chính sách dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng ngày càng được hoàn thiện; công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng tu bổ đền đài, nghĩa trang liệt sĩ luôn được quan tâm. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, diện thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng được mở rộng, chế độ chăm sóc, ưu đãi được nâng lên, các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng thật sự trở thành phong trào rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân, với nhiều hình thức tổ chức, nhiều việc làm cụ thể thiết thực, phong phú, sáng tạo trở thành nét đẹp văn hóa trong đời sống xã hội.


Thế nhưng những năm gần đây, trên không gian mạng xuất hiện những bài viết, video clip và một số tác phẩm viết dưới dạng văn học của một số cá nhân chống đối, phần tử cơ hội, bất mãn, họ lợi dụng một số vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách ở một số nơi để phủ nhận, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và sự chung tay của toàn xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Có bài viết cho rằng, nhà cầm quyền Việt Nam “vô ơn với liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc, lạnh lẽo khói hương ngày giỗ các anh”; “sự hy sinh là vô nghĩa do cả tin, bị dối lừa”…


Nguy hiểm và trắng trợn hơn, họ còn kêu gọi, tập hợp những đối tượng bất mãn, cơ hội lập ra các hội, nhóm cựu chiến binh để tiến hành các hoạt động trái pháp luật, từ đó tuyên truyền, kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin tham gia, gây mất an ninh trật tự… Các thế lực phản quốc lưu vong xới lại điệp khúc cũ, coi cuộc đấu tranh chống Pháp, Mỹ và các thế lực tay sai để giải phóng dân tộc của nhân dân ta là cuộc "chiến tranh ý thức hệ, huynh đệ tương tàn", "miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam" để từ đó đi đến đồng nhất nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của lực lượng cách mạng với những kẻ cầm súng giúp sức cho ngoại bang là liệt sĩ - tử sĩ. Với luận điệu này, họ đòi hỏi sự đổ máu nào cũng phải đối xử công bằng, không phân biệt bên này, bên kia! Khi không được đáp ứng thì họ lại giở tấu hài rằng, ngay trong lúc đi tìm sự hòa hợp, chúng ta vẫn chỉ đi tìm từ phía “kẻ thắng” nên khó mà tìm ra sự đồng thuận!


Một số thế lực cố tình xuyên tạc lịch sử, tuyên truyền rằng Quân đội Việt Nam Cộng hoà mới là “những người yêu nước, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ độc lập dân tộc”, đồng thời bôi đen Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chúng còn xuyên tạc rằng cái chết của quân và dân ta là “những cái chết vô nghĩa, bị Đảng Cộng sản lợi dụng cho mục đích chính trị”, vu cáo “nhà cầm quyền Việt Nam vô ơn với liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc”… Mới đây, một số đối tượng còn tổ chức đại nhạc hội với tên gọi “Cảm ơn anh, người thương binh Việt Nam Cộng hoà”, hát những bài có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước, tưởng nhớ, ca ngợi cái gọi là “hy sinh anh dũng” của quân lực Việt Nam Cộng hoà. Không khó khi nhận ra những kẻ rêu rao luận điệu này được tài trợ tiền từ nước ngoài, nay muốn thể hiện để nhận được trợ giúp.


Những luận điệu xuyên tạc trên tuy không mới song nằm trong âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Việc xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp sự hy sinh của các liệt sĩ, thương binh, người có công là thủ đoạn thể hiện bản chất xảo trá, vô ơn, bạc nghĩa để phục vụ mục tiêu chống phá, tạo ra nhận thức lệch lạc, làm suy giảm lòng tin của một bộ phận quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ. Việc lặp lại những luận điệu này còn gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời khoét sâu vào mất mát, nỗi đau chiến tranh, tổn thương của thân nhân gia đình liệt sĩ, thương binh, người có công với cách mạng.


Tiếp nối đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”


Trong những ngày tháng đất nước còn khói lửa chiến tranh, biết bao người con giã từ gia đình, quê hương, xung phong lên đường chiến đấu, một lòng vì Tổ quốc “Ra đi, ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết chớ lui”. Hơn ai hết, họ đã chuẩn bị một tâm thế, lòng tin vững vàng trước sự hy sinh của cuộc chiến đầy gian nan, khốc liệt phía trước và vẫn lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày độc lập, tự do của Tổ quốc.


Chúng ta không bao giờ quên hình ảnh những người đã xả thân vì nước, quyết không để quân thù cướp từng tấc đất quê hương. Không thể quên câu nói của người thanh niên trẻ Lý Tự Trọng: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”; không thể quên tinh thần quả cảm của chiến sĩ giao liên Kim Đồng, sự bất khuất, hiên ngang của nữ Anh hùng Võ Thị Sáu; xúc động và tự hào biết bao trong tiếng hô vang khẩu hiệu yêu nước của người chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Trỗi trước khi bị hành hình: “Hồ Chí Minh muôn năm! Việt Nam muôn năm!”…


Đó là sự hy sinh anh dũng của những cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc; nguồn cảm hứng lãng mạn, khát khao cống hiến cháy bỏng của những chàng trai, cô gái đôi mươi xung phong ra tuyến đầu chống giặc được thể hiện trong Nhật ký Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm… Vẻ đẹp, sự dũng cảm, hy sinh vì độc lập, tự do của các anh, các chị không một dòng văn thơ nào có thể diễn tả hết, đó chính là vẻ đẹp bất diệt. Máu của các anh, các chị “đã làm cho lá cờ của cách mạng thêm đỏ chói”; “Sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do” (Hồ Chí Minh).


Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Từ tháng 7/1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, liệt sĩ” để ghi nhận và tri ân những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.


Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27/7 hằng năm trở thành Ngày Thương binh, liệt sĩ của cả nước. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng, ghi công các Anh hùng liệt sĩ, quan tâm và dành những tình cảm đặc biệt, chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng. Các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, chăm sóc người có công đã thực sự trở thành phong trào rộng khắp, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở tất cả các cấp, các ngành, địa phương.


Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên… Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công; nâng cao các công trình “đền ơn đáp nghĩa”. Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ngày 27/10/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 25/01/2016 về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công.


Chiến tranh đã lùi xa nhưng hậu quả để lại ngày nay vẫn còn nặng nề. Bao thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ, người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân yêu của mình. Hàng triệu người đã ngã xuống vì khát vọng cháy bỏng độc lập, tự do, thống nhất và đi lên CNXH. Nó phản ánh nghị lực phi thường của nhân dân ta, đồng thời khẳng định ý chí, quyết tâm thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là sự hy sinh anh dũng, nguyện đi theo Đảng, trung thành với Đảng, sống và chiến đấu cho sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, trở thành một khối đại đoàn kết thống nhất. Cho nên, với luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ trong kháng chiến cứu nước là “những cái chết vô nghĩa” thì đó là lập luận của những kẻ vô ơn, bội nghĩa mà chúng ta cần phải đấu tranh, lên án.

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

Soi xem mình được mấy “dám”?

 Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần "7 dám" là quan điểm chỉ đạo được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023. Quán triệt, thực hiện tinh thần “7 dám” vừa là giải pháp rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, vừa góp phần tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Gắn vào thực tiễn “xây” và “chống”


Tinh thần “7 dám” của cán bộ Quân đội trong tình hình mới được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương khái quát, gồm: "Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”. Gắn vào thực tiễn công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chúng ta thấy rõ: “7 dám” vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp của công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội.


Nội hàm của cán bộ “7 dám” là sự cụ thể hóa những đặc trưng, truyền thống tốt đẹp về phẩm chất đạo đức, giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, là sự phát triển tư duy lý luận, đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực cán bộ Quân đội trong giai đoạn mới. Khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc này để thấy rõ hơn, sự phát triển của đời sống xã hội là quy luật vận động không ngừng. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng...


Quân đội ta phải đặt ra yêu cầu, tiêu chí và giải pháp ngày càng cao trong xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Khi cán bộ hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực theo tinh thần “7 dám”, các cơ quan, đơn vị các cấp trong Quân đội sẽ có nền tảng tinh thần vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ để cán bộ, chiến sĩ khai mở tiềm năng, năng lực, phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ.


Để hiện thực hóa tinh thần “7 dám”, Tổng Bí thư yêu cầu Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các cấp ủy đảng trong Quân đội phải đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị. Trong Quân đội, tuyệt đối không để xảy ra tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm...


Thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị Quân đội trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu to lớn, những thành tích nổi bật đã đạt được, đáng lưu ý là ở một số đơn vị, trong một số thời điểm còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng. Một bộ phận cán bộ, cấp ủy, người chỉ huy vẫn còn "bệnh thành tích", giấu giếm khuyết điểm; xử lý một số vi phạm, vụ việc phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời, triệt để... Những hạn chế, khuyết điểm này trong một số trường hợp nhất định không chỉ ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ; chất lượng, hiệu quả huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng đơn vị... mà còn là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chống phá Quân đội...


Quán triệt phương châm “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo quan điểm của Đảng, chúng ta càng thấy rõ tính cấp thiết của việc củng cố, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”. Đó cũng là căn cứ để cấp ủy, chỉ huy các cấp đẩy mạnh thực hiện phê bình, tự phê bình; đề ra các chỉ tiêu, nội dung, giải pháp đấu tranh, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”.


Soi xem mình được mấy “dám”?

Ảnh minh họa: TTXVN 

 


Soi rọi vào chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên


Từ thực tiễn hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đã được Quân ủy Trung ương sơ kết, đánh giá tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023, chúng ta thấy: Để xảy ra những biểu hiện tiêu cực, yếu kém ở đơn vị, nguyên nhân trực tiếp đều bắt nguồn từ phẩm chất, năng lực, phương pháp làm việc, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, nhất là cấp ủy, người chỉ huy các cấp.


Nhìn rộng ra và sâu hơn, chúng ta thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm... trong những năm qua đã đưa ra ánh sáng công lý hàng loạt cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong những vụ việc, vụ án được dư luận xã hội quan tâm đặc biệt, có không ít cán bộ cấp cao trong Quân đội. Để dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân trực tiếp, cơ bản và căn cốt nhất vẫn là do phẩm chất của cán bộ, đảng viên.


Lấy tinh thần “7 dám” soi rọi vào từng cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao, chúng ta càng thấy rõ, nếu thiếu hoặc coi nhẹ các tiêu chí đó, cán bộ không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chẳng hạn, khi đơn vị có hiện tượng tiêu cực, vi phạm kỷ luật nghiêm trọng nhưng cán bộ báo cáo không trung thực, tìm cách bao biện, che giấu khuyết điểm... thì đó là thiếu tinh thần “dám nghĩ”, “dám làm”, “dám chịu trách nhiệm”...


Cán bộ thấy đồng chí của mình sai nhưng im lặng, né tránh, làm ngơ... thì đó là biểu hiện không “dám nói”, không “dám hành động vì lợi ích chung”. Che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích để được khen thưởng, thực dụng, chỉ lo vun vén cho quyền lợi cá nhân, luồn lách tìm cơ hội thăng tiến thì đó là những biểu hiện coi nhẹ đổi mới sáng tạo, không “dám đương đầu với khó khăn, thử thách”...


Các tiêu chí, nội hàm của cán bộ “7 dám” có mối quan hệ biện chứng, bổ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Thiếu đi một “dám” sẽ tác động, ảnh hưởng đến những phẩm chất còn lại. Thiếu càng nhiều “dám” hoặc làm sai lệch nội hàm, bản chất của những tiêu chí đó đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là một bước ngắn dẫn đến tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong bối cảnh toàn quân ta đang nỗ lực tập trung triển khai, thực hiện các mục tiêu, nội dung, giải pháp đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.


Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đang đẩy mạnh thực hiện đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thực chất các chương trình, kế hoạch xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân theo các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Đảng và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương. Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” theo quan điểm của Đảng; cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan, đơn vị cần bổ sung vào nghị quyết lãnh đạo, chương trình hành động, tổ chức học tập, quán triệt đầy đủ, sâu sắc tinh thần “7 dám”.


Cần coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để thực hiện thường xuyên phê bình, tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người chỉ huy, bí thư, cấp ủy các cấp cần nêu gương, nghiêm túc đánh giá bản thân trên cương vị, chức trách được giao xem mình được mấy “dám”? Những cái “dám” nào mình còn thiếu, hoặc lâu nay vì nhiều lý do, chưa thực sự coi trọng thì có kế hoạch khắc phục, rèn luyện, phấn đấu. Soi xem mình được mấy “dám” sẽ có căn cứ để đánh giá bản thân có hay không thái độ bàng quan, cầu an, “mũ ni che tai”, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai né tránh đấu tranh, nói xấu, tìm kẽ hở của đồng chí, đồng đội để xoi mói, nịnh bợ, tâng công, cầu vinh, vụ lợi... Soi xem, nếu thấy những thứ ấy đang đè nặng hoặc lởn vởn trong tư duy, nếp nghĩ của mình thì hãy tự sửa, tự gột rửa.


Quân đội ta mạnh ở tính đoàn kết, thống nhất, tự giác, nghiêm minh. Bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ theo tinh thần “7 dám” không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong một thời điểm mà cần lấy đó làm “cẩm nang” thường xuyên, gắn kết với các hình thức, phương thức giáo dục khác để đẩy mạnh tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện. Chỉ khi cán bộ thực sự “dám” đối diện với những thói hư, tật xấu, khuyết điểm... của bản thân thì mới có động lực để “dám” cống hiến, hy sinh vì tập thể, vì đơn vị, vì sự nghiệp xây dựng Quân đội. Đó cũng là cách để ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội.

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

Không thể xuyên tạc chính sách đối với người có công

 Trải qua 76 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta luôn quan tâm với tình cảm, trách nhiệm sâu sắc chăm lo người có công và gia đình người có công (NCC, GĐNCC) bằng những chính sách cụ thể, thiết thực nhất quán và phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, thể hiện truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa".


Các chủ trương, chính sách dành cho NCC, GĐNCC ngày càng được hoàn thiện. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, tu bổ đền đài, nghĩa trang liệt sĩ luôn được quan tâm. Công tác chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ phát triển kinh tế, cải thiện về nhà ở, đất ở được thực hiện thường xuyên. Nhiều chương trình lớn như: “Quỹ đền ơn đáp nghĩa”, “Nhà tình nghĩa”, “Quỹ nghĩa tình đồng đội”, “Phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng”… đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trở thành phong trào tự nguyện, tự tâm trong các tầng lớp nhân dân đối với công lao to lớn, sự mất mát của NCC và GĐNCC. Thông qua đó, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được khơi dậy và bồi đắp những giá trị nhân văn sâu sắc.

Thế nhưng, đi ngược lại với những giá trị tốt đẹp của dân tộc, các thế lực thù địch ở nước ngoài, các đối tượng bất mãn, cơ hội luôn cố tình thực hiện mọi âm mưu, thủ đoạn để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; triệt để sử dụng môi trường không gian mạng để xuyên tạc, kích động, chống phá. Chúng đưa ra các bài viết, video clip trắng trợn xuyên tạc, nội dung cóp nhặt, lập lờ, đánh tráo giá trị, đổi trắng, thay đen, tạo ra sự hoài nghi, gây xáo trộn tư tưởng ít nhiều trong những người nhẹ dạ, cả tin.

Những kẻ vô ơn, bạc nghĩa còn phủ nhận những cống hiến, hi sinh to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, NCC, GĐNCC. Nguy hiểm và trắng trợn hơn, chúng còn kêu gọi, tập hợp những đối tượng bất mãn, cơ hội lập ra các câu lạc bộ, hội, nhóm cựu chiến binh hoạt động trái pháp luật, từ đó tuyên truyền, kích động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin tham gia, gây mất an ninh trật tự. 

Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần hết sức tỉnh táo, nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn thô bỉ, thấp hèn của chúng. Các cấp, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội cần đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, nhất là trong thế hệ trẻ. Thường xuyên tiếp tục chung tay chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần đối với NCC, GĐNCC, coi đó là tình cảm, vinh dự và trách nhiệm.

Hơn 8.000 người cống hiến một phần thân thể, hơn 18.000 gia đình, với 12.378 thân nhân liệt sĩ; 6.000 người hoạt động kháng chiến; 1.039 người có công với cách mạng. 2.016 người bị địch bắt, tù đày tra tấn dã man nhưng vẫn giữ vững khí tiết, trung kiên với cách mạng. 3.364 Mẹ vinh dự được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”.  Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo, thực tốt công tác “đền ơn – đáp nghĩa” với nhiều việc làm thiết thực.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng sự hi sinh quên mình vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân của các anh hùng liệt sĩ, những thương bệnh binh, NCC với cách mạng sẽ luôn là những tượng đài lịch sử bất tử sống mãi trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam.

“Bệnh xa rời thực tiễn” của cán bộ, đảng viên

 Trong chuyến công tác tại một số tỉnh phía Bắc mới đây, chúng tôi có lịch làm việc với trung tâm giáo dục chính trị của địa phương. Trước giờ diễn ra hội nghị, khi đề cập đến vấn đề thực tế đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên của trung tâm, đồng chí giám đốc tỏ ra khá cởi mở, không ngần ngại chia sẻ: Cán bộ, đảng viên của ta bây giờ kinh nghiệm thực tiễn hạn chế lắm. Thích ngồi phòng lạnh, nói toàn những điều “đao to, búa lớn”, chuyện “trên trời”, nhưng những chuyện tưởng như “rất vặt” làm nên hơi thở của cuộc sống, của thực tiễn thì lại cho là “không quan trọng”...

Biểu hiện của “căn bệnh xa rời thực tiễn"


Từ cuộc trò chuyện với đồng chí giám đốc trung tâm, chúng tôi nhớ đến phong cách làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh-phong cách thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên thực tiễn và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn để tiếp thu chọn lọc những gì hợp lý, đúng đắn và định hướng cho quá trình tìm ra hệ thống lý luận cũng như phương pháp, nhằm giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó là phong cách hành động khoa học, lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất phát của quá trình nhận thức chân lý. Vậy, "bệnh xa rời thực tiễn" của cán bộ, đảng viên hiện nay biểu hiện như thế nào?


Trước hết, đó là bệnh lười học tập để nâng cao năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ. Thực tiễn luôn vận động không ngừng, trong khi một bộ phận cán bộ, đảng viên lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin, hiểu biết mới; không có sự trăn trở và sáng tạo trong quá trình học tập, công tác. Những biểu hiện chính của bệnh lười học tập lý luận chính trị là: Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 


“Bệnh xa rời thực tiễn” của cán bộ, đảng viên

 Lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho đoàn viên thanh niên. Ảnh: nhandan.vn

Như đồng chí giám đốc trung tâm chia sẻ: Nhiều cán bộ, đảng viên có thái độ thiếu nghiêm túc khi tham gia các lớp bồi dưỡng về lý luận chính trị, trong đó có cả cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp từ tỉnh đến cơ sở. Biểu hiện rõ nhất là khi tham gia học tập, không ít cán bộ, đảng viên xuất hiện tư tưởng “có mặt” để điểm danh mà chưa thực tâm chú ý lắng nghe, trăn trở trước những vấn đề quan trọng, cốt lõi của lý luận chính trị. Đáng buồn hơn, không ít cán bộ, đảng viên mặc nhiên làm việc riêng, vô tư trò chuyện trong lớp học mà quên đi việc tập trung, chú ý lắng nghe báo cáo viên, giảng viên truyền thụ kiến thức lý luận chính trị. Thậm chí, sau mỗi đợt học tập chính trị tập trung, một số cán bộ, đảng viên còn “bỏ quên” tài liệu, văn kiện tại giảng đường, dưới gầm bàn... Khi làm bài thi, bài thu hoạch, do không nắm được kiến thức nên tình trạng sao chép, quay cóp diễn ra khá phổ biến.


Thứ hai, không xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ, đảng viên: Phải nghiên cứu thực tế, kinh nghiệm thực tiễn, để qua đó “tự mình tìm ra phương hướng chính trị có thể làm những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo”, có nghĩa là mọi suy nghĩ, hành động phải xuất phát, hình thành từ yêu cầu của thực tiễn, qua quá trình quan sát, lắng nghe, suy nghĩ, hành động thực tế để có được nhận thức, tư duy lý luận, từ đó định hướng hành động thực tiễn của người tổ chức, lãnh đạo, quản lý. Thực tế hiện nay, không ít cán bộ, đảng viên rất “máy móc” trong cả lời nói lẫn việc làm, đi đến đâu cũng chỉ một “bài phát biểu” gần như thuộc lòng mà không để ý đến thực tế địa phương, cơ quan, đơn vị đó như thế nào, có đặc điểm gì... Từ đó, nói toàn những lời “sáo rỗng”, nói kiểu “trên trời”, không ăn nhập gì với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn.


Thứ ba, bệnh giáo điều lý luận. Nó xuất hiện dưới dạng “hàn lâm”, “kinh viện”, coi trọng sách vở (đến mức lạm dụng, sùng bái) sách vở, “kinh điển”. Đọc quá nhiều sách nhưng không “tiêu hóa” được sách hoặc đọc không đến nơi đến chốn... dẫn đến một hình thức cực đoan trong tư duy, trích dẫn thay thế cho suy nghĩ, cho lập luận logic, làm cho lý luận biến thành “màu xám”, không có sức sống, xa rời thực tiễn, không giúp ích gì trong việc lý giải, chỉ đạo thực tiễn. Từ đó, xuất hiện tư tưởng coi thường lý luận hoặc nói một đằng, làm một nẻo. Nói chỉ là nói lý luận suông, làm thì theo kinh nghiệm vụn vặt của cá nhân.


Tình trạng lý luận xa rời thực tiễn đang diễn ra khá phổ biến ở không ít cán bộ, đảng viên. Có người am hiểu lý luận, nhưng ít hiểu biết thực tiễn; số khác có hiểu biết thực tiễn, nhưng yếu về lý luận; hoặc là vừa không am hiểu lý luận, vừa xa rời thực tiễn. Số cán bộ, đảng viên vừa am hiểu lý luận, vừa sâu sát thực tiễn không nhiều. Như đồng chí giám đốc trung tâm chia sẻ: Thực tế, có giảng viên khi lên lớp giảng bài, học viên không biết giảng viên đang trình bày vấn đề đó nhằm mục đích gì cho bài giảng. Toàn những câu trích “kinh điển” mà nhiều khi không liên quan đến bài giảng, không phản ánh gì thực tiễn cuộc sống.


Nguyên nhân của “căn bệnh xa rời thực tiễn”


Bệnh xa rời thực tiễn bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là từ chính cá nhân mỗi cán bộ, đảng viên.


Về khách quan: Công tác cán bộ ở một số địa phương, ban, ngành, cơ quan, đơn vị còn những bất cập nhất định; chủ trương, chính sách đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, sử dụng, luân chuyển cán bộ còn hạn chế... dẫn đến việc bổ nhiệm người không đúng, không tương xứng, không phù hợp về trình độ, năng lực, sở trường với cương vị, chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm...; việc quy định một số tiêu chí cán bộ chưa phù hợp, nặng về hình thức, chưa có sự nhất quán trong tổ chức triển khai thực hiện; quản lý chưa chặt chẽ, nhiều “kẽ hở” để cán bộ, đảng viên có thể lách qua hoặc trì hoãn nhiệm vụ. Việc giải quyết hài hòa giữa luân chuyển cán bộ với đào tạo, sử dụng nguồn cán bộ tại chỗ và gắn với chức danh quy hoạch còn bất cập, hiệu quả chưa cao.


Về chủ quan: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa lý luận. Một bộ phận, trong quá trình công tác lười quan sát, ít lắng nghe, thiếu sự phân tích, đánh giá thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị, từ đó không nâng cao được trình độ lý luận, không đổi mới tư duy, rơi vào giáo điều, lý thuyết suông, lý luận không gắn với thực tiễn, nếu có cũng chỉ là những kinh nghiệm vụn vặt; một bộ phận cán bộ, đảng viên lười đi thâm nhập thực tế, sợ luân chuyển. Nếu phải đi thì có tư tưởng “cầu an”, thiếu ý chí phấn đấu, ngại va chạm... vì nghĩ rằng đi thực tế chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, đi luân chuyển để được đề bạt lên chức vụ cao hơn nên thiếu sâu sát thực tiễn, thiếu quyết liệt trong công tác, cố “giữ mình” để “chờ ngày về”. Vì vậy, chất lượng cán bộ sau khi đi thực tế, luân chuyển không đạt được yêu cầu như kỳ vọng...


Khắc phục “căn bệnh xa rời thực tiễn” bằng cách nào?


Để khắc phục “căn bệnh xa rời thực tiễn” của cán bộ, đảng viên hiện nay cần quán triệt, học tập, rèn luyện theo phong cách thực tiễn của Hồ Chí Minh một cách quyết liệt, hiệu quả.


Trước hết, cán bộ, đảng viên cần thay đổi nhận thức về việc giảng dạy, học tập lý luận; tăng tính thực tiễn trong giảng dạy, học tập lý luận. Công tác giảng dạy lý luận phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, không phải dạy cái giảng viên có mà dạy cái xã hội, con người, đời sống đang cần, Đảng cần, Nhà nước cần, nhân dân cần. Nghĩa là phải tăng tính thực tiễn trong từng bài giảng, giờ giảng và trong cả quá trình truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn đến người học. Ngược lại, người học phải hết sức nghiêm túc trong học tập, tiếp thu kiến thức lý luận trên cơ sở hiểu biết và bám sát thực tiễn.


Tăng tính thực tiễn là gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn đất nước, làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả hoạt động thực tiễn công tác của mình. Học tập lý luận mà không gắn với thực tiễn của cán bộ, đảng viên là coi việc học tập lý luận chỉ để gắn cái “mác”, để “đủ tiêu chí”, để có cái “bằng”, học tập để nói cho “có vẻ” lý luận; học lý luận để biết “dăm câu ba chữ” dùng làm “trang sức” hoặc để lòe người khác, chứ không để nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trình độ tư duy lên tầm lý luận; giải thích và chỉ đạo thực tiễn bằng lý luận.


Học tập lý luận cần chú trọng lý luận chính trị, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, không phải kiểu học thuộc lòng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phê phán đó là cách học sách vở Mác-Lênin nhưng không học tinh thần Mác-Lênin. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin là phải học tinh thần của Chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết tốt những vấn đề trong thực tế học tập, công tác, nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục được bệnh xa rời thực tiễn.


Thứ hai, vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn để nâng cao hiệu quả công tác. Học tập lý luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cải tạo thực tiễn. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà để phân tích, lý giải thực tiễn. Phải đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong công tác đặt ra, như vậy thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ rơi vào giáo điều lý luận.


Thứ ba, thường xuyên tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận, làm giàu tri thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác: Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy có nghĩa là làm cho lý luận được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.


Thứ tư, thường xuyên quan tâm làm tốt công tác luân chuyển cán bộ, đưa cán bộ, đảng viên thâm nhập, khảo sát thực tế địa phương, cơ sở. Đây được xem như là công đoạn tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thực tế; thông qua đó giúp cán bộ có điều kiện, môi trường rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành, phát triển nhanh và toàn diện hơn. Đây cũng là một bước tiến mang tính đột phát trong công tác cán bộ của Đảng nhằm thử thách và đào tạo ra những cán bộ nhiều bản lĩnh, kinh nghiệm gắn với thực tiễn ở cơ sở. Việc sâu sát, gắn bó, lăn lộn với cơ sở sẽ giúp cán bộ tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cũng như tổng kết thực tiễn để nâng tầm thành lý luận trong xây dựng phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để phát triển một địa phương, một cơ quan, đơn vị... sát, đúng yêu cầu của thực tiễn.


“Xa rời thực tiễn” là “căn bệnh” rất nguy hiểm ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Không khó để nhận biết, nhưng để khắc phục triệt để căn bệnh này không phải là việc đơn giản, ngày một ngày hai mà phải trải qua một quá trình với sự vào cuộc của nhiều chủ thể, lực lượng, tổ chức và chính ý thức chủ quan mỗi cán bộ, đảng viên.

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị cần đấu tranh phê phán, loại bỏ.


Tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhưng vẫn bị thờ ơ, nghi hoặc


Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn con đường XHCN và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.


Tuy nhiên, sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, không ít người, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên tỏ ra hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta; thậm chí còn xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Có thể khẳng định rằng, thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là “căn bệnh” rất nguy hại, biểu hiện đa dạng như: Dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn của đất nước, trong khi đó lại có những lời lẽ chê bai, phê phán sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp.


Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.


Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.


“Quy luật tiến hóa của lịch sử” đang hiện diện sinh động ở Việt Nam


Điều kiện bảo đảm cách mạng thành công, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta là trước hết phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng và xây dựng CNXH ở nước ta; Đảng phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng CNXH vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam.


Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đến nay, đã có nhiều hội thảo bàn luận khá sôi nổi về khả năng và triển vọng của CNXH; trong đó, đáng tiếc là có một số ý kiến của cán bộ, đảng viên có biểu hiện hoài nghi về tương lai của chế độ XHCN. Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.


Về sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: Đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”; gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp logic và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Đến Đại hội XI của Đảng, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” đã phản ánh tổng quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự kiên định, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước.


Phê phán, đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN


Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.


Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.


Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.


Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội... Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.


Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay.

NGÀY THƯƠNG BINH - LIỆT SỸ - Ý NGHĨA LỊCH SỬ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI NHÂN VĂN SÂU SẮC

 Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7 hàng năm là ngày lễ kỷ niệm quan trọng, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc; đây là dịp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kính cẩn tưởng nhớ, tri ân các bậc cách mạng tiền bối, anh hùng liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã dũng cảm chiến đấu, anh dũng hy sinh; biết ơn các thương binh đã cống hiến một phần xương máu của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Năm 1947, trong khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương binh” để bày tỏ tình cảm thắm thiết, lòng biết ơn sâu sắc với những người đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Từ đó, ngày 27/7 hàng năm đã trở thành ngày kỷ niệm thiêng liêng, mang đậm tính nhân văn Việt Nam, là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tưởng nhớ, tôn vinh và tri ân công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng .

Ngày 27/7 đã đi vào lịch sử đất nước như một dấu ấn nhắc nhở mọi người về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc Việt Nam. Nhân dịp này, rất nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa đã được thực hiện, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân tri ân, chia sẻ, động viên đối với người có công, gia đình chính sách.

Qua đó, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần cách mạng và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Bác Hồ và Đảng ta đã lựa chọn. Đồng thời nhằm động viên và phát huy truyền thống cách mạng trong công cuộc đổi mới đất nước, góp phần tăng thêm tiềm lực cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và cơ sở để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần chống lại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, bôi nhọ quá khứ hào hùng của dân tộc.

Việc quan tâm, chăm sóc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng là chủ trương, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, là đạo lý truyền thống của dân tộc ta. Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt các công tác liên quan đến thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và tổ chức vận động toàn dân tích cực tham gia các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng”. Nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ưu đãi đối với người có công đã được ban hành như: Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Nghị định quy định mức hưởng trợ cấp, phụ cấp và các chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng… Qua đó đã làm cho đối tượng hưởng chính sách ưu đãi được mở rộng, các chế độ ưu đãi từng bước được bổ sung, hoàn thiện, thể hiện sự trân trọng, biết ơn, chăm lo của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, công tác chăm lo, “đền ơn đáp nghĩa” đối với người và gia đình có công với cách mạng được quan tâm đặc biệt và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Điều này được thể hiện thông qua những hoạt động cụ thể như: Các bà mẹ Việt Nam anh hùng được quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng, phụng dưỡng đến hết đời; các cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ tiền khởi nghĩa được quan tâm chăm lo mọi mặt trong cuộc sống, được ưu đãi về nhà ở; thương binh, bệnh binh, người và gia đình có công  được chăm lo về đời sống vật chất, tinh thần.

Đất nước được độc lập, non sông liền một dải, biên cương cũng im tiếng súng, nhưng hàng vạn liệt sĩ vẫn chưa được tìm thấy hài cốt, chưa xác định được danh tính. Vẫn còn đó niềm mong muốn khắc khoải, được đưa những người con đã anh dũng hy sinh, trở về quê hương, đoàn tụ với gia đình, đồng đội, để được tri ân, để góp phần vợi bớt nỗi đau của các gia đình liệt sĩ. Có thể nói, sự cống hiến, hy sinh của những người có công với cách mạng cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà còn cho muôn đời sau. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định trong những năm tới, tiếp tục: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân…”. Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công là nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Làm tốt công tác đối với thương binh, liệt sĩ và Người có công với cách mạng thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, làm cơ sở giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa./.


Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2023

Tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

 6 tháng đầu năm, Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Quảng Nam tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; theo dõi, nắm bắt dư luận xã hội, nhất là trước những vụ việc, vấn đề nhạy cảm, phức tạp; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời lan tỏa thông tin tích cực…


 

 Đồng chí Nguyễn Thị Thu Lan, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Phó trưởng Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Quảng Nam chủ trì Hội nghị

Sáng 21/7, Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Quảng Nam tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm; triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023. Đồng chí Nguyễn Thị Thu Lan, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Phó trưởng Ban Chỉ đạo 35 tỉnh chủ trì Hội nghị.


Báo cáo tại Hội nghị cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định. Trong nước, các thế lực thù địch, phản động, chống đối đẩy mạnh liên kết với các tổ chức phản động ở nước ngoài, gia tăng các hoạt động chống phá, nhất là phá hoại về tư tưởng, chính trị.


Trên cơ sở chỉ đạo, hướng dẫn của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo 35 tỉnh Quảng Nam tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; theo dõi, nắm bắt dư luận xã hội, nhất là trước những vụ việc, vấn đề nhạy cảm, phức tạp; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời lan tỏa thông tin tích cực, gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; triển khai tăng cường tuyên truyền thông tin tích cực, đấu tranh ngăn chặn, xử lý thông tin xấu, độc dịp Tết Nguyên đán Quý Mão, kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng Việt Nam, dịp lễ kỷ niệm 30/4 và 01/5; chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền liên quan đến tình hình xung đột vũ trang giữa Nga và U-crai-na; tuyên truyền về các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII và các kỳ họp Quốc hội khóa XV…


Tham mưu hướng dẫn đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ nhân kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (28/3/1930 - 28/3/2023). Triển khai học tập chuyên đề Chỉ thị 05 năm 2023 trên địa bàn toàn tỉnh. Tham mưu tích cực để Tỉnh ủy phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khu vực III tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Nghiên cứu và vận dụng các quan điểm trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào thực tiễn tỉnh Quảng Nam”; mở đợt sinh hoạt chính trị, tổ chức quán triệt cho trên 10.000 cán bộ, đảng viên về nội dung cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Hội nghị cũng đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2023. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng trước hết là tiếp tục chỉ đạo tăng cường các hoạt động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Tăng cường các biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước; chủ động đấu tranh phòng chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh tuyên truyền thông tin tích cực, viết bài đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, đăng tải, chia sẻ nhằm pha loãng những thông tin xấu độc trên không gian mạng; xử lý hành chính, hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm Luật An ninh mạng năm 2018, Nghị định 15/2020/NĐ-CP, ngày 03/02/2020 và Nghị định 14/2022/NĐ-CP, ngày 27/01/2022 của Chính phủ. Chuẩn bị các nội dung tham mưu Hội nghị chuyên đề sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam./.


Cho sáng mắt ra...

 Đêm qua, ông Thanh hậm hực không ngủ được vì đọc trên Facebook của đứa cháu trong họ có ý phản đối việc xã tu sửa Đài tưởng niệm liệt sĩ cho trang trọng hơn, chuẩn bị cho lễ thắp nến tri ân vào dịp 27-7. Đã thế, cậu ta còn dẫn lời của những kẻ phản động, bất mãn, cho rằng việc xây bảo tàng chiến tranh, dựng nhiều đài tưởng niệm là không cần thiết, lãng phí, tổ chức lễ lạt những dịp này gây tốn kém tiền của...

Chờ trời sáng, vừa trên giường xuống đất, khoác thêm cái áo, xỏ đôi dép lê, ông Thanh bừng bừng lửa giận, đạp xe thẳng đến nhà đứa cháu, mắng xối xả từ cổng mắng vào:


- Hùng đâu rồi? Mới “nứt mắt” ra đã vội quên ơn tổ tiên, quên ơn những người hy sinh xương máu cho anh được ăn no, mặc ấm, được sống trong hòa bình như hôm nay. Ông thật không thể chấp nhận được suy nghĩ như vậy. Họ nhà này không thể có một đứa cháu như thế!


Cho sáng mắt ra...

 Thắp nến tri ân tại Khu mộ 10 nữ Anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh:TTXVN

Từ trong nhà, ông Huyên, bố của Hùng bước ra gãi đầu gãi tai bối rối:


- Con mời ông vào nhà. Ông bớt giận, mới sáng ra, con chưa biết ông phật ý cháu nó chuyện gì mà nặng lời thế ạ! Hôm nay cháu nó đi sớm, sang huyện bên chở ít gạch để về be lại cái bờ ao. Chắc lát nó về ông ạ.


Vẫn chưa hạ hỏa, ông Thanh chìa điện thoại ra cho ông Huyên xem, rồi to tiếng:


- Đấy, anh xem, tôi không hiểu con trai anh học ở đâu cái thói đã nói xấu chính quyền lại còn coi thường cả việc lễ nghĩa với các anh hùng liệt sĩ. Không những thế, nó còn cổ xúy cho luận điệu của các thế lực thù địch, phỉ báng lịch sử, quên ơn những người đã hy sinh xương máu cho đất nước này. Tôi thử hỏi anh, như thế có chấp nhận được không? Hôm tới họp họ, tôi sẽ đưa chuyện này ra để các cụ bàn.


- Ấy, con xin ông! Có gì ông bớt giận, để con dạy lại cháu. Chắc cũng do hôm vừa rồi nó đưa máy múc đất ruộng, san vườn trái phép, bị các anh ở xã xuống lập biên bản nên nó bực dọc "đá thúng đụng nia", phát ngôn bừa bãi như vậy. Con đã khuyên bảo, nhắc nhở rồi mà nó có vẻ vẫn chưa “ăn” lời.


- Anh nhận thức thế thì tôi cũng yên tâm phần nào. Nhưng làm sai thì phải chịu trách nhiệm. Không thể vì mình bị xử lý vi phạm mà bất mãn, xuyên tạc, nói xấu chính quyền, thậm chí xúc phạm cả lịch sử, xúc phạm anh linh các anh hùng liệt sĩ như vậy được.


- Vâng ông, con hiểu chứ ạ. Việc xã ta đang sửa sang Đài tưởng niệm liệt sĩ, tổ chức các hoạt động tri ân người có công với cách mạng là thể hiện truyền thống, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những hy sinh của thế hệ cha anh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bà con trong xã hoàn toàn ủng hộ mà ông. Cháu Hùng làm như vậy là rất sai, từ bất mãn cá nhân vô lý mà có suy nghĩ và việc làm trái với truyền thống, đạo lý, thậm chí vi phạm pháp luật là không thể chấp nhận được. Con là bố của nó, con xin lỗi ông và xin hứa sẽ có trách nhiệm khuyên bảo nó nhận thức ra vấn đề để gỡ bỏ những lời sai trái ấy.


- Anh suy nghĩ đúng rồi đấy! Anh phải nói rõ để con trai anh hiểu, việc làm của nó không chỉ sai mà còn là cái cớ để những kẻ bất mãn, thù địch lợi dụng nói xấu chính quyền, nói xấu chế độ ta, phủ nhận lịch sử dân tộc.


- Vâng thưa ông, ông thư thư uống chén trà. Lát cháu Hùng về, con sẽ phân tích cho nó sáng mắt ra...

“Vợ nhặt” và chuyện chống phá không hề vặt

 Kết thúc kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông Hưng trăn trở khi xem trên mạng xã hội thấy một số đối tượng lấy cớ đề thi môn Ngữ văn có sử dụng ngữ liệu từ tác phẩm “Vợ nhặt”, cho rằng tác phẩm đó không còn phù hợp; đồng thời kêu gọi loại khỏi chương trình phổ thông một bộ phận văn học kháng chiến. Điều mà nhà giáo về hưu lo lắng hơn là các đối tượng dùng những luận điệu xảo trá để kích động thanh niên phủ nhận các giá trị lịch sử.

Đem lo ngại đó chia sẻ trong buổi uống trà sáng với mấy người bạn hưu trí, ai cũng bày tỏ bức xúc giống ông Hưng. Ông Khang lên tiếng:


- Tôi không thể chấp nhận được cách nghĩ của một số người khi họ cho rằng cần xem lại môn Ngữ văn trong chương trình phổ thông theo hướng bỏ những tác phẩm văn học kháng chiến, thêm vào nhiều hơn các tác phẩm văn học mới, văn học hiện đại. Họ còn lên mạng chia sẻ, cổ xúy cho điều đó. Không biết những người này có hiểu rằng, văn học là một mạch nguồn xuyên suốt từ lịch sử đến hiện tại. Đành rằng cần liên tục tiếp nhận, bổ sung vào chương trình phổ thông các tác phẩm mới có giá trị. Song nếu không có quá khứ, không có lịch sử, truyền thống vẻ vang thì làm sao có một nền văn học như ngày hôm nay.


Ông Thanh tiếp lời:


- Thực ra, tôi thấy những người này làm vậy là có ý đồ xấu, hai ông ạ. Không chỉ đơn thuần nhắm đến văn học, họ âm mưu sâu xa phủ nhận một phần lịch sử, để lớp trẻ dần không còn biết đến những năm tháng kháng chiến hào hùng của dân tộc, sự hy sinh xương máu của thế hệ cha ông.


“Vợ nhặt” và chuyện chống phá không hề vặt

Ảnh minh họa: Thí sinh bước vào kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023.

- Ông Thanh nói đúng đấy ạ! Tôi lo ngại nhất là những thông tin này đã được một số thanh niên chia sẻ. Với những suy nghĩ non nớt, lập trường chưa vững vàng, các cháu rất dễ bị những người có ý đồ chính trị thâm độc lợi dụng, định hướng để đạt được mục đích chống phá, lôi kéo lớp trẻ xa rời các giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo văn hóa du nhập, lối sống thực dụng, quay lưng với lịch sử, quên đi công lao của cha ông, sống vô ơn-ông Hưng tiếp tục bày tỏ lo lắng.


Ông Khang sốt sắng:


- Thế này là đã rõ, những người có ý đồ xấu đang mượn việc đề thi hoàn toàn bình thường để xuyên tạc, ra mặt chống phá chứ không còn là chuyện vặt nữa. Vậy thì, chúng ta phải làm gì đi chứ các ông nhỉ. Chẳng có lẽ, cánh già chúng mình thấy thế lại để những kẻ xấu lôi kéo con, cháu chúng ta?


Ba người bạn hưu trí thống nhất ngay, mỗi người sẽ viết lên Facebook và Blog cá nhân của mình một số bài tuyên truyền cho mọi người nhận rõ luận điệu của những kẻ bất mãn, chống phá. Còn ông Khang, từng là giáo viên dạy Ngữ văn, cộng tác viên của một số tờ báo sẽ viết bài đấu tranh với luận điệu chống phá của các thế lực thù địch.

Việt Nam không “tự mình cô lập mình” trong thực hiện chính sách quốc phòng

 Đến nay, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng quốc phòng, trong đó công khai chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, nhằm mục tiêu tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ.

Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.


Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.


Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhóm người tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với vận mệnh quốc gia-dân tộc đã gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không” (không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.


Việt Nam không “tự mình cô lập mình” trong thực hiện chính sách quốc phòng

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. Ảnh: Tạp chí Tuyên giáo

Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.


Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; cấp độ cao hơn là từ chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.


Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:


Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Người nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đồng thời, Người căn dặn, phải luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; phải đặc biệt coi trọng xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, vì lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. 


Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.


Chiến lược quốc phòng Việt Nam năm 2018 xác định: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (LHQ) và những vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.


Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rõ, cùng với chủ trương “4 không”, Việt Nam: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.


Đồng thời, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.


Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”. 


Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.


Đặc biệt, gần 10 năm qua, Việt Nam đã triển khai hơn 530 cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ tại các phái bộ và trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được LHQ ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp với chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế. Hình ảnh chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới được lan tỏa rộng rãi, ghi dấu ấn tích cực và đậm nét trong lòng nhân dân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, được bạn bè quốc tế trân trọng, quý mến.


Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.


Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.


Theo đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam ở cả trong nước và quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; huy động tối đa các nguồn lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phát huy vai trò “tiên phong” trong kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2023

Giải pháp nào đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, phản biện xã hội?

 Giám sát, phản biện xã hội được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong công tác tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Công việc này góp phần phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Do đó, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.


Hội nghị phản biện xã hội đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức ngày 15/9/2022. 


Những con số “biết nói”


Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) được quy định trong Hiến pháp và Luật MTTQ Việt Nam, đồng thời được cụ thể hoá bằng Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính trị khóa XI về công tác giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của MTTQ Việt Nam; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 26/10/2022 của Ban Bí thư về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.


Thực hiện các quy định trên, thông tin mới đây của MTTQ Việt Nam cho biết, trong 5 năm qua (2018-2022), Ban Thường trực Ủy ban MTTQ các cấp đã tiến hành giám sát 60.463 cuộc giám sát, trong đó MTTQ cấp tỉnh giám sát được 2.689 cuộc; MTTQ cấp huyện giám sát 11.638 cuộc và Mặt trận cấp xã giám sát 46.136 cuộc bằng hình thức nghiên cứu, xem xét văn bản thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân trên nhiều lĩnh vực như: Giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch UBND các cấp; giám sát việc thực hiện chương trình phối hợp vận động và bảo đảm an toàn thực phẩm...


Cũng trong 5 năm qua, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tổ chức 87.356 đoàn giám sát. Trong đó MTTQ cấp tỉnh giám sát được 1.981 cuộc, MTTQ cấp huyện giám sát 13.213 cuộc, MTTQ cấp xã giám sát 72.162 cuộc. Nội dung giám sát được tập trung vào nhiều lĩnh vực, trọng tâm của công tác xây dựng đảng, chính quyền; quản lý tài nguyên đất đai; quản lý hành chính; thực hiện trách nhiệm công vụ; lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng; công tác huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực xã hội; công tác phòng, chống COVID-19, thực hiện chính sách an sinh xã hội; bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Chủ tịch UBND các cấp...


Cùng với đó, MTTQ các cấp thường xuyên quan tâm củng cố, kiện toàn và phát huy vai trò giám sát thông qua Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Trong 5 năm qua, Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn đã tổ chức được 144.462 cuộc tập trung vào các nội dung như: giám sát chính quyền thực hiện công tác chăm lo người nghèo, gia đình chính sách; giám sát việc thu, chi các loại quỹ vận động, các nguồn thu trong dân, giám sát công tác cải cách hành chính, trật tự xây dựng...


Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng đã tổ chức được 149.200 cuộc giám sát, qua đó đã kiến nghị, phản ánh đến nhà thầu, chủ đầu tư xử lý, giải quyết giúp cơ quan quản lý nhà nước các cấp, chủ đầu tư phát hiện những sai sót, bất cập trong quá trình thực hiện các dự án để có những điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế; góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư dự án trên địa bàn.


Về công tác phản biện, ở Trung ương, từ năm 2018-2022, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị phản biện xã hội. Các dự án Luật, đề án được UBTƯ MTTQ Việt Nam tổ chức phản biện là những dự thảo văn bản liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của công dân; đóng vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội và được nhân dân quan tâm như: Phản biện Dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo; (Dự án Luật về Hội; Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13; Dự thảo Luật phòng chống tham nhũng (sửa đổi); Dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi); Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)…


Ở các tỉnh, thành phố, trong 5 năm qua, đã tổ chức 23.869 hội nghị phản biện; gửi văn bản đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tham gia góp ý kiến, phản biện vào 42.051 văn bản dự thảo về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội... của các cơ quan, tổ chức tại địa phương, cơ sở…


Những con số “biết nói” nêu trên trong công tác giám sát phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã được các cấp ủy, chính quyền coi trọng, ghi nhận, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ cao. Từ đó, vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ngày càng được khẳng định, phát huy trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.


Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giám sát và phản biện xã hội vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được khắc phục. Đó là qua thực tiễn cho thấy, càng xuống cấp dưới, công tác giám sát, phản biện xã hội càng khó khăn, lúng túng; chưa có nhiều phát hiện sau giám sát mà chỉ mới chỉ dừng ở phát hiện, nêu ý kiến. Trong đó, nhiều kiến nghị còn chung chung, không nêu rõ cơ quan thực hiện, giải quyết kiến nghị, chưa có cơ sở đánh giá, theo dõi kết quả thực hiện kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…


Trong khi đó, kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội ngày càng cao hơn, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi các văn bản quy định về giám sát phản biện mới được ban hành khá nhiều như Kết luận 19 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 18 của Ban Bí thư, Kết luận 54 của Ban Bí thư…. Trong đó, Kết luận 54 yêu cầu Đảng đoàn MTTQ Việt Nam lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng cơ chế để Nhân dân trực tiếp tham gia góp ý, phản ánh với Đảng về những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của cán bộ, đảng viên….


Đi vào chiều sâu, phát huy hiệu quả thiết thực


Để công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp ngày càng hiệu quả, ông Ngô Trung Thành, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho rằng, trong bối cảnh mới, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cần tập trung hơn nữa vào công tác giám sát, phản biện xã hội và phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội làm rõ những vướng mắc trong thể chế, các văn bản pháp luật cụ thể, chỉ ra từng bất cập trong quy định hiện hành nhằm giúp cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội sớm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát, phản biện xã hội.



Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Ngô Trung Thành.

Cùng với đó, việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, quy trình giám sát, phản biện cần được thực hiện xuyên suốt trong tất cả các khâu, bởi nếu chỉ thực hiện giám sát, phản biện xã hội tại giai đoạn dự thảo thì khó đạt được hiệu quả cao. Do đó việc tham gia giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cần bao quát trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đơn cử Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam có thể tham gia các khâu như thẩm tra, chỉnh lý trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.


Dưới góc nhìn của mình, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh Trần Kim Yến cho rằng, MTTQ các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội cần tiếp tục tăng cường các hoạt động giám sát việc thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, đến phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, đặc biệt đối với lĩnh vực đất đai, quy hoạch, đền bù giải tỏa mặt bằng.


Đồng thời cần tập trung giám sát phát hiện, góp phần ngăn chặn tình trạng nhũng nhiễu của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc với người dân. Quan tâm giám sát các lĩnh vực văn hóa - giáo dục - y tế - bảo vệ môi trường nhằm góp phần cùng các ngành chức năng chăm lo ngày càng tốt hơn cuộc sống của Nhân dân; giám sát việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền đối với các vụ việc mà MTTQ Việt Nam đã kiến nghị, qua đó góp phần xây dựng chính quyền, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.


Cũng theo bà Trần Kim Yến, để hoạt động giám sát, phản biện xã hội hiệu quả thì cần nghiên cứu kinh phí hỗ trợ tương xứng trong phát huy vai trò và trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học tham gia hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Cùng với đó, cần xem xét nâng hoạt động giám sát, phản biện xã hội thành Luật, trong đó cần quy định hoạt động phản biện xã hội là một trong những quy định bắt buộc khi ban hành một văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời cần quy định chế tài cụ thể về trách nhiệm, thời hạn gửi dự thảo văn bản đề nghị phản biện xã hội và việc giải trình, tiếp thu ý kiến, trách nhiệm trả lời các kiến nghị sau giám sát của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội của các cơ quan được giám sát.


Phó Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam thành phố Hà Nội Nguyễn Sỹ Trường nhấn mạnh đến việc cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về công tác giám sát, phản biện xã hội theo đúng tinh thần Chỉ thị 18 của Ban Bí thư. Cấp ủy các cấp cần có quy định cụ thể về quy chế làm việc giữa cấp ủy với Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp về công tác giám sát, phản biện xã hội. Có nghị quyết về công tác lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền các cấp tiếp thu và thực hiện các kiến nghị giám sát của Mặt trận.


“Cần nghiên cứu cơ chế phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng, giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp với giám sát của MTTQ, các tổ chức chính trị, xã hội để vừa phát huy được sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu quả giám sát, tránh chồng chéo, cùng một nội dung, nhiều đoàn giám sát. Đồng thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật MTTQ Việt Nam tập trung vào việc bổ sung chế tài trong công tác giám sát, phản biện xã hội nhằm nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận, xứng đáng là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của Nhân dân”, ông Nguyễn Sỹ Trường kiến nghị.



 Phó Chủ tịch Uỷ ban MTTQ Việt Nam thành phố Hà Nội Nguyễn Sỹ Trường. 

Từ những những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Đỗ Thị Thu Thảo cũng lưu ý, trong thời gian tới cần phát huy vai trò chủ trì hiệp thương của MTTQ trong xây dựng kế hoạch giám sát, phản biện xã hội. MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phải lựa chọn đa dạng các hình thức giám sát, phản biện xã hội phù hợp với điều kiện thực tế; phát huy tính công khai, minh bạch, đặc biệt là nắm bắt dư luận, tập hợp được ý kiến, kiến nghị của hội viên, Nhân dân trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội.


Song song với đó, chú trọng tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông trong suốt quá trình giám sát, phản biện xã hội. Huy động, tận dụng hoạt động truyền thông, dư luận xã hội vào công tác giám sát, phản biện xã hội, nhằm phát huy tính công khai, minh bạch, đặc biệt là nắm bắt dư luận, tập hợp được ý kiến, kiến nghị của hội viên, Nhân dân trong quá trình thực hiện...


Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Phú Yên Nguyễn Quốc Hoàn thì lại lưu ý tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức giám sát, phản biện xã hội theo hướng chủ động, từ sớm, từ cơ sở, dân chủ, khách quan, mang tính xây dựng; có trọng tâm, trọng điểm, chú trọng giám sát theo chuyên đề, tập trung vào những chủ trương, chính sách lớn, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ưu tiên những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, bức xúc. Tăng cường giám sát đại biểu dân cử và việc thực hiện kiến nghị của cử tri và Nhân dân; việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên. Công khai, minh bạch kết quả giám sát, phản biện xã hội theo quy định…


Mặt khác, MTTQ Việt Nam tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ quan của Quốc hội, giám sát đến cùng, phản biện đến cùng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận đối với hoạt động xây dựng luật của Quốc hội./.

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2023

TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH LÀ NGUYÊN TẮC SINH HOẠT, LÀ QUY LUẬT TỒN TẠI, PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 V.I.Lênin khẳng định, muốn tồn tại và phát triển, Đảng phải thường xuyên tự phê bình và phê bình; “Nếu một chính đảng nào mà không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng” (1). Theo lời chỉ dạy của V.I.Lênin, hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã luôn coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt, là quy luật tồn tại và phát triển của mình.

Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động. Bản chất của Đảng thể hiện trước hết ở mục tiêu, lý tưởng và các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội, đồng thời cũng là một thực thể tồn tại trong xã hội, cho nên Đảng phải được xây dựng và phát triển trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và quy luật khách quan.

Thực tiễn cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bất cứ đảng nào cũng có lúc phạm phải sai lầm. Vấn đề là, đứng trước những sai lầm, mỗi đảng có thái độ ứng xử và cách thức xử lý khác nhau. Theo Ph.Ăngghen: “Giai cấp vô sản, cũng như tất cả các đảng khác, sẽ học tập nhanh nhất qua những sai lầm bản thân, những sai lầm này không ai có thể tránh hoàn toàn cho họ được”. Vì vậy, nghiêm túc nhìn nhận ra sai lầm và thành thật sửa chữa khuyết điểm, là cách tốt nhất để Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm quý giá từ chính những sai lầm của mình, giúp cho Đảng hoàn thiện chính mình và trở lên mạnh mẽ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự phê bình và phê bình. Người cho rằng mục đích tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ. Theo Người, Đảng phải vận động để tự phê bình và phê bình trở thành một thói quen, một nếp sinh hoạt; không nên duy trì theo kiểu “đóng cửa bảo nhau” trong nội bộ, mà phải vận động quần chúng cùng tham gia phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng.

Tuân thủ những nguyên tắc chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình, coi đây là nguyên tắc sinh hoạt quan trọng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Do đó, Người yêu cầu các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tính đảng, tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt công tác thực hiện nghị quyết, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, chân thành để sửa chữa và cùng nhau tiến bộ.

Trong giai đoạn 1953 - 1956, phát hiện những điểm không phù hợp trong lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất, Trung ương Đảng đã nghiêm túc, thẳng thắn thừa nhận, chỉ rõ nguyên nhân, yêu cầu, biện pháp sửa sai và xử lý nghiêm đối với các trường hợp thực hiện không đúng đường lối lãnh đạo của Đảng. Sự thành thật nhận khuyết điểm và kiên quyết sửa chữa của Đảng và Chính phủ đã góp phần củng cố mối đoàn kết toàn dân, ổn định nông thôn, hăng hái đẩy mạnh sản xuất phục vụ công cuộc kháng chiến.

Thời kỳ bước vào công cuộc đổi mới, trang nhất báo Nhân dân liên tục trong nhiều năm luôn có chuyên mục “Nói và làm” để công khai những hạn chế của bộ máy chính trị, vạch rõ hướng sửa chữa khắc phục, tạo niềm tin cho nhân dân. Với quyết tâm làm cho tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, thật sự trở thành “vũ khí sắc bén”, có thể thấy Đảng ta luôn nghiêm túc nhận thức rõ những tồn tại, hạn chế trong lãnh đạo kinh tế xã hội, những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, yêu cầu tự phê bình và phê bình ở các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng luôn được duy trì nghiêm túc, hiệu quả và đảm bảo chất lượng.

Làm rõ cơ sở lý luận nguyên tắc tự phê bình và phê bình sẽ giúp cho toàn Đảng thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững vai trò là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là vũ khí đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, hòng phủ nhận bản chất của Đảng và xuyên tạc các nguyên tắc tổ chức, xây dựng Đảng.

CHỐNG THAM NHŨNG KHÔNG CÓ VÙNG CẤM

 Trước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, Đảng ta và Nhà nước ta đã kiên quyết xử lý và bước đầu có kết quả nhất định được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị lại tỏ ra hằn học, tung ra các luận điệu sai trái hòng xuyên tạc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.

Chúng cho rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là một “quốc nạn không có thuốc chữa” và nguyên nhân của tham nhũng bắt nguồn từ yếu tố “Đảng cầm quyền”. Vì vậy, “Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được”. Chúng suy diễn rằng “việc xử lý các vụ tham nhũng vừa qua vẫn là “giơ cao đánh khẽ”, thực chất đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là trò “đấu đá nội bộ” hay “thanh trừng phe phái” lẫn nhau”. Đây là những luận điệu hết sức thâm độc nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước; giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta; gieo rắc tâm lý hoài nghi, dao động, làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, yếu kém về chính trị tư tưởng. Không những thế, chúng còn ngụy biện rằng, tình trạng tham nhũng ở Việt Nam là do chế độ “độc đảng” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo nhận diện những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, lệch lạc.

Trước hết, trong thời gian qua chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Điều đó không chỉ nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên mà còn góp phần rất quan trọng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước. Do vậy, các thế lực thù địch cho rằng “Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thành công được” là xuyên tạc thực tế ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, “phần lớn tham nhũng xảy ra ở các quốc gia có chế độ đa đảng, tam quyền phân lập”. Ở châu Á, tình trạng tham nhũng tuy không nhiều nhưng vẫn còn diễn biến hết sức phức tạp. Do đó, việc thế lực thù địch khẳng định tham nhũng chỉ xảy ra ở những nước có chế độ một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam là trái với thực tế, xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ ta. Tuy nhiên, tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta; tham nhũng tồn tại ở tất cả các quốc gia, các chế độ chính trị xã hội khác nhau mà không dễ gì để xóa bỏ nó tận gốc. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chúng ta phải tiến công một cách kiên trì, kiên quyết, thường xuyên, liên tục, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Trong luận điệu chúng cho rằng “công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Việt Nam là “giơ cao, đánh khẽ”, “thanh trừng bè phái trong nội bộ” là rất phản động, cố tình xuyên tạc nhằm phủ nhận năng lực lãnh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Trên thực tế, Đảng ta đã xử lý rất công minh, chính xác, kịp thời đúng người, đúng tội những cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ thuộc diện Trung ương, Bộ Chính trị quản lý nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ xứng đáng với niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chứ không phải như những luận điệu các thế lực thù địch xuyên tạc.

Để tiếp tục phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc thành tựu phòng, chống tham nhũng tiêu cực của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; nhất là, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Ban Chỉ đạo Trung ương; thực hiện tốt chủ trương thành lập và phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí bí thư tỉnh ủy, thành ủy làm trưởng ban.

Thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, với phương châm “nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng”, “dọc ngang thông suốt”, tránh “trên nóng, dưới lạnh”, “đầu voi, đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”… làm cho dân tin vào Đảng và mỗi đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân./.


MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TÔN GIÁO

 Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, có tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào, có tôn giáo nội sinh. Trong những năm qua, đại đa số chức sắc, chức việc, tín đồ phấn khởi, tin tưởng trước những thành tựu đổi mới của đất nước; tín đồ các tôn giáo đã phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng, đảm bảo an ninh trật tự, góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

Hệ thống văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta từng bước được hoàn thiện, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo, phù hợp với luật pháp quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Điều này được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992, 2013. Cụ thể: Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định“Mọi người có quyền bình đẳng theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tôn giáo” đã mở rộng cho tất cả mọi người là công dân hoặc mất quyền công dân vẫn có quyền tin, theo tôn giáo đồng thời khẳng định trách nhiệm bảo hộ của Nhà nước về quyền này. Bên cạnh đó, -Quốc hội, Chính phủ tiếp tục ban hành và sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến hoạt động tôn giáo, có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, cũng như quản lý các hoạt động tôn giáo theo pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, tôn giáo có sự thích ứng về căn bản với Nhà nước trong một giai đoạn nhất định, song cùng với sự phát triển của xã hội có thể phát sinh sự không thích ứng mới đòi hỏi phải có những điều chỉnh. Quá trình thích ứng, tái thích ứng sâu rộng với xã hội XHCN là một tất yếu khách quan trong mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

Ngày 01/6/2023, trên trang Blog Việt Nam thời báo, đối tượng Thích Nguyên Lý tán phát bài “Nhà chức trách đã cởi mở hơn về các hoạt động tôn giáo ở Sài Gòn”, nội dung xuyên tạc tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta; vu cáo chính quyền Việt Nam “ngăn cấm” hoạt động các tôn giáo; kích động, gây chia rẽ mối đoàn kết giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền; đồng thời, cổ xúy cho các hoạt động bất hợp pháp của tổ chức “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”.

Với âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm, các thế lực thù địch đã và đang ra sức lợi dụng vấn đề tôn giáo làm cái “cớ” để cố tình xuyên tạc, khai thác nhằm chống phá Đảng, chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại đoàn kết tôn giáo, gây chia rẽ, kích động hận thù hoặc tạo tâm lý hoang mang, lo lắng, gây tư tưởng chia rẽ, bạo loạn, đòi tự do lập hội, thúc đẩy “xã hội dân sự” để thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam của các thế lực thù địch.


KẾT QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC CỦA VIỆT NAM NĂM 2022

 Về thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng

Việc công khai, minh bạch và thực hiện trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng có chuyển biến tích cực; kịp thời công bố, công khai, thông tin báo chí về những vụ việc dư luận xã hội quan tâm, kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, xử lý tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật; các bộ, ngành, địa phương kiểm tra tại 14.425 cơ quan, tổ chức, đơn vị về công khai, minh bạch (tăng 39,71% so với năm 2021), phát hiện, chấn chỉnh, xử lý đối với 111 cơ quan, tổ chức, đơn vị vi phạm.

Cải cách thủ tục hành chính tiếp tục có nhiều chuyển biến rõ nét. Việc công khai, công bố, cập nhật các TTHC được thực hiện thường xuyên trên Cổng dịch vụ công quốc gia và các kênh thông tin khác theo quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tra cứu, tìm hiểu và thực hiện thủ tục hành chính.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường thực hiện các biện pháp nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt. Trong đó, tổng số lượng giao dịch nội tệ qua Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đạt trên 153,14 triệu giao dịch, với giá trị đạt trên 170,54 triệu tỷ đồng (tăng 11,02% về số lượng và 37,07% về giá trị giao dịch so với cùng kỳ năm 2021). Tổng giá trị giao dịch qua Hệ thống bù trừ điện tử và chuyển mạch tài chính đạt hơn 3.665,42 triệu giao dịch, với giá trị đạt gần 39,09 triệu tỷ đồng.

Theo báo cáo của các bộ, ngành, các địa phương và các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan, năm 2022 có 19 người đứng đầu đã bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng (xử lý hình sự 10 người, cách chức 01 người, cảnh cáo 05 người, khiển trách 03 người). Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu đã có tác dụng răn đe, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác phòng, chống tham nhũng tại cơ quan, đơn vị mình phụ trách.

Về phòng, chống tham nhũng tại các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo; các bộ, ngành, địa phương chú trọng tăng cường quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước; đã tuyên truyền, tập huấn cho các hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, công ty đại chúng, các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán… về các quy định pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố…

Công tác thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng

Toàn ngành Thanh tra đã triển khai 7.844 cuộc thanh tra hành chính và 195.326 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra chấn chỉnh quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trên nhiều lĩnh vực; phát hiện vi phạm về kinh tế 79.102,2 tỷ đồng, 10.621,2 ha đất. Qua đôn đốc, các cơ quan chức năng đã thu hồi 114.012,3 tỷ đồng (đạt tỷ lệ 42,5%), 537,5 ha đất; xử lý hành chính 2.917 tổ chức, 7.498 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 98 vụ, 135 đối tượng; khởi tố 16 vụ, 68 đối tượng.

Cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã giải quyết 24.075 vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 89,1%. Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho nhà nước 132,9 tỷ đồng, 122,1 ha đất; trả lại cho tổ chức, cá nhân 148,9 tỷ đồng, 20,5 ha đất; khôi phục, đảm bảo quyền lợi cho 119 tổ chức, 576 cá nhân; kiến nghị xử lý 547 người; chuyển cơ quan điều tra tiếp tục xử lý 32 vụ, 55 đối tượng.

Kiểm toán Nhà nước kiến nghị xử lý tài chính 36.293,5 tỷ đồng,

Việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng

Các Cơ quan điều tra trong Công an Nhân dân đã thụ lý điều tra 687 vụ án, 1.439 bị can phạm tội về tham nhũng. Đã kết luận điều tra và đề nghị truy tố 336 vụ/765 bị can; tạm đình chỉ điều tra 34 vụ/50 bị can; đình chỉ điều tra 08 vụ/03 bị can; thay đổi tội danh 04 vụ/02 bị can; nhập vụ án 01 vụ; chuyển Cơ quan điều tra hình sự - Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng điều tra theo thẩm quyền 01 vụ/02 bị can…

Công tác thi hành án liên quan đến việc thu hồi tài sản tham nhũng: Tổng số phải thi hành là 3.973 việc, tương ứng với 89.609 tỷ 972 triệu đồng; trong đó: số có điều kiện thi hành là 2.739 việc tương ứng với 43.593 tỷ 296 triệu đồng; đã thi hành xong 1.895 việc, tương ứng với 15.989 tỷ 592 triệu đồng (tăng hơn 11.895 tỷ đồng, tương đương tăng 290,51% về tiền so với năm 2021).

Gía trị tự do dân chủ của Chế độ Chủ nghĩa xã hội

Ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định con đường mà cách mạng Việt Nam phấn đấu là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đó chính là con đường mang đến độc lập, tự do, công bằng, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã, đang và sẽ tiếp tục nhất quán, kiên trì xây dựng. Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác phẩm của Tổng Bí thư đã luận giải, làm sáng rõ, phát triển, hoàn thiện lý luận, thực tiễn vấn đề dân chủ trong xã hội XHCN mà nhân dân ta hướng tới, được thể hiện khái quát ở những nội dung cụ thể sau đây: Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng ta, đó là “Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam” và “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.