Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Thông qua dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là cần thiết và phù hợp với công ước quốc tế

Tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIV đã chính thức thông qua dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (TNTG). Mục đích, ý nghĩa, tính nhân văn của việc làm ấy được thể hiện rất rõ ràng. Thế nhưng ngay sau đó, trên một vài trang mạng ở nước ngoài đã xuất hiện những luận điệu sai trái hòng xuyên tạc việc làm ấy của Quốc hội Việt Nam.
Họ nói rằng, “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật TNTG”. Họ còn xuyên tạc rằng: Dự án Luật TNTG mà Quốc hội Việt Nam thông qua “không nhằm phục vụ nhân quyền mà chỉ để phục vụ cho sự cai trị của Đảng Cộng sản...”. Những nhân vật đưa ra các luận điệu ấy chứng tỏ họ chẳng hiểu gì về tự do TNTG trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.            
Cần phải khẳng định rằng, tự do TNTG là một trong những quyền nhân thân cơ bản của con người. Điều này không chỉ được thể hiện rõ trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà còn được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật của các quốc gia.
Tại Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966 (Việt Nam tham gia công ước này ngày 24-9-1982), ghi rõ: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, TNTG. Quyền tự do này bao gồm tự do có theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ TNTG một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo; 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng; 3. Quyền tự do bày tỏ TNTG chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác”.
Ngay tại Mỹ-một đất nước luôn tự cho là “mẫu hình” về tự do tôn giáo, nhưng trong hệ thống luật pháp vẫn có các quy định để duy trì các tôn giáo hoạt động đúng nguyên tắc. Chẳng hạn, trong Hiến pháp Hoa Kỳ có quy định về việc tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước trong Tu Chánh Án thứ nhất, trong đó có nội dung: Nghiêm cấm việc thiết lập một tôn giáo nhà nước chính thức cũng như cấm chính phủ trợ giúp cho các nhóm tôn giáo... Tương tự ở Pháp, một nước được xem là đạt nhiều thành tựu về bảo đảm quyền tự do TNTG, nhưng đây cũng là quốc gia có hệ thống pháp luật khá đầy đủ và chi tiết về tự do TNTG. Đạo luật ngày 9-12-1905 của Pháp ghi rõ: “Nền Cộng hòa bảo đảm quyền tự do lương tâm, bảo đảm quyền tự do thực hành các việc thờ phụng với những hạn chế duy nhất được ban bố... vì lợi ích trật tự công cộng” (Điều 1). Để quản lý các hoạt động TNTG, Trung Quốc cũng ban hành nhiều văn bản luật. Chẳng hạn, Nghị định 145 ngày 31-1-1994 của chính phủ nước này quy định: “Các nơi hoạt động tôn giáo phải đăng ký theo thể thức do Cục Tôn giáo Quốc gia ấn định. Các nơi đó không thể do người nước ngoài điều khiển. Các nơi thờ tự không được nhận tiền bạc của các tổ chức và cá nhân từ nước ngoài gửi về. Tiền bạc do người nước ngoài tặng hoặc dâng cúng phải được tiếp nhận theo luật pháp quốc gia…”.    
 Như vậy có thể thấy, không chỉ ở Việt Nam mà các nước trên thế giới đều quan niệm không có tự do TNTG tuyệt đối. Để bảo đảm quyền tự do TNTG của người dân, các quốc gia trên thế giới đều ban hành trong hệ thống luật pháp của mình các điều luật cụ thể, hoàn toàn không có chuyện “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật TNTG” như giọng điệu mà các thế lực thù địch đang rêu rao. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tự do TNTG là một trong những quyền cơ bản của con người. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn lịch sử Việt Nam. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 10, Chương 2, nêu rõ: “Mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Sau đó, quyền tự do TNTG của người dân tiếp tục được Nhà nước Việt Nam tái khẳng định tại Điều 26, Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước đó, sau khi nước nhà thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã cho ra đời bản Hiến pháp năm 1980, trong đó tại Điều 80 cũng thể hiện: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Tiếp đó, tại Điều 70 của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước Việt Nam một lần nữa khẳng định: “Công dân Việt Nam có quyền tự do TNTG, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các TNTG được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do TNTG hoặc lợi dụng TNTG để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Đúng như Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,trong trả lời phỏng vấn báo chí về việc Quốc hội Việt Nam thông qua dự thảo Luật TNTG đã nhấn mạnh: “Đây là bước ngoặt lớn trong chính sách đối với TNTG ở Việt Nam mà Đảng, Nhà nước đang thực thi để hiện thực hóa Hiến pháp năm 2013. Luật TNTG này hơn hẳn các pháp lệnh, nghị định trước đây bảo đảm quyền con người, đáp ứng được nhu cầu bức thiết của TNTG ở Việt Nam trong thời kỳ mới, hội nhập quốc tế”. Một trong những mục đích chính của việc thông qua dự thảo Luật TNTG là nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, đưa TNTG ở Việt Nam phù hợp với Công ước quốc tế và thực tiễn đất nước. Những ai cho rằng dự án Luật TNTG mà Quốc hội Việt Nam vừa thông qua “không nhằm phục vụ nhân quyền...” là một sự xuyên tạc trắng trợn, không thể chấp nhận được.

        Quang Hải

Thắng lợi của niềm tin

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp. Đây là dấu mốc quan trọng trên con đường đi tới “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của dân tộc Việt Nam. Đại hội khẳng định ý chí, quyết tâm và niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với con đường đã chọn
Thành công của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tạo niềm vui to lớn đối với nhân dân ta. Bởi, Đại hội tiếp tục khẳng định đường lối đúng đắn, phù hợp để đưa đất nước tiếp tục phát triển. Thế nhưng, trái ngược với niềm vui của toàn dân tộc, các thế lực cơ hội, phản động vì những mưu toan hèn hạ chống phá Đảng, chống phá Đại hội không thực hiện được.
Trên các mạng xã hội, họ mở một chiến dịch rầm rộ “chưa từng có”, tấn công, chống phá Đảng Cộng sản Việt nam. Vốn biết niềm tin của nhân dân đối với Đảng là nhân tố vô cùng quan trọng bảo đảm cho cách mạng giành thắng lợi. Bởi vậy, chúng đã tiến hành nhiều thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc nhằm hạ thấp uy tín của Đảng và ý nghĩa Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đặc biệt, họ tập trung công kích vào công tác nhân sự Đại hội Đảng; vu khống, bôi nhọ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, dựng chuyện về mâu thuẫn nội bộ, đấu đá, tranh giành quyền lực trong Đảng, v.v. Tất cả đều nhằm làm mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, trong chiến dịch chống phá đó, có một vấn đề họ luôn lẩn tránh, đó là thành quả công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 30 năm qua, nhất là trong 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XI. Vì sao họ không dám nhắc tới điều này? Bởi một lý do rất đơn giản vì đó là những thành quả to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, gắn liền với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà nhân dân hết sức tin tưởng và quyết tâm thực hiện. Không những nhân dân ta, mà bạn bè quốc tế đều ghi nhận những thành tựu đó và coi Việt Nam như một điểm sáng để các quốc gia đang phát triển nghiên cứu học tập, v.v.
Tiếp tục đường lối đổi mới đúng đắn đó, và trên cơ sở thực tiễn trong nước và tình hình thế giới, Đảng ta đề ra đường lối phát triển của đất nước cho 5 năm tới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII hàm chứa những nội dung mang tầm chiến lược về xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế mới, vì thế đã đáp ứng được kỳ vọng của toàn dân. Đảng ta đã phân tích sâu sắc tất cả các yếu tố tác động; đề ra mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cho mọi lĩnh vực của đất nước, với những tư tưởng, quan điểm đổi mới, đúng đắn, sáng tạo, mang tính đột phá cao.
Trải qua 86 năm lãnh đạo đất nước, Đảng ta đã có 12 kỳ Đại hội. Mỗi lần Đại hội Đảng diễn ra đều để lại những dấu ấn mạnh mẽ, sâu sắc trong tâm khảm người dân Việt Nam. Với chủ đề: “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Đổi mới”, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công hết sức tốt đẹp, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, ý chí kiên cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Đại hội một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở. Điều đó đã mang lại niềm tin to lớn của nhân dân ta đối với Đảng và chế độ và là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường đổi mới đất nước.

Nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang

Âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang đã được các thế lực thù địch áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây. M. Gorbachev và những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
M.Gorbachev đã cố tình xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang, làm cho Quân đội và Công an bị “phi chính trị hoá” và bị vô hiệu hoá, từ đó mất phương hướng chính trị, mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc XHCN (mặc dù quân đội Liên Xô lúc bấy giờ vẫn còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại). Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự tan rã của Liên bang Xô viết.
Lực lượng vũ trang ra đời khi xã hội phân chia thành các giai cấp và xuất hiện Nhà nước, nó gắn liền và bị chi phối bởi tính chính trị của Nhà nước và giai cấp đã sinh ra nó. Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của giai cấp, mang bản chất giai cấp sâu sắc, là công cụ vũ trang chủ yếu của Nhà nước để bảo vệ chế độ, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội nhằm thực hiện quyền thống trị của giai cấp cầm quyền.
Do đó, vấn đề chính trị của lực lượng vũ trang luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu, liên quan đến bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu; thực chất là giải đáp câu hỏi lực lượng vũ trang do ai tổ chức, lãnh đạo; chiến đấu cho ai, vì ai?
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chỉ rõ, bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp vô sản chính là xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội và Công an.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp; trong đó có những nguy cơ, thách thức trực tiếp đe dọa đến hoà bình, ổn định chính trị và phát triển của đất nước. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như khủng bố quốc tế, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ; những vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh…
Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc hơn nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đáng chú ý là, chúng triệt để lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế và tác động mặt trái của cơ chế thị trường tập trung tấn công vào nội bộ, sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn để mua chuộc, lôi kéo, cài cắm người vào các cơ quan trọng yếu; ráo riết tiến hành các hoạt động nhằm “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nhân tố gây mất ổn định để chống phá ta.
Thời gian gần đây xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, quân đội phải là lực lượng trung lập với chính trị, quân đội đứng ngoài chính trị và không phụ thuộc vào chính trị. Cần khẳng định đây là quan điểm hết sức sai trái và phản động, vì xuất phát từ chính bản chất của quân đội là đội quân mang tính giai cấp sâu sắc, được lập ra nhằm mục đích bảo vệ chính quyền do giai cấp lập nên.
Trong lần về thăm Trường Chính trị trung cấp Quân đội (nay là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng) ngày 25-10-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở các học viên: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, dân sự. Phải học tập chính trị: quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
QĐND ra đời từ các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, có nhiệm vụ chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước, chính vì vậy, bản thân nó đã là một lực lượng chính trị.
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam đã chứng minh: Quân đội là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối của Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
   
      Quang Đệ

Biểu hiện mới của "diễn biến hòa bình"

"Diễn biến hòa bình" đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng, an ninh, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình", bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, thì lại có người cho rằng “diễn biến hòa bình" là do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế”; rằng, chúng ta đã cố tình thêu dệt để hù dọa nhân dân, để che đậy khuyết điểm, Đây là một sự hồ đồ về chính trị của một số người hay là một thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch. Vì lẽ đó:
          Cần thấy rằng, khái niệm “diễn biến hòa bình" không phải là sự “sáng tạo” của những người cộng sản, cũng không phải là con "ngáo ộp" được thêu dệt nhằm hù dọa nhân dân, mà đó là một chiến lược, là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc và là mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam,“diễn biến hòa bình” là một nguy cơ, được các thế lực thù đich ráo riết đẩy mạnh và quyết liệt hơn với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
"Diễn biến hòa bình" đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, không phải là một con “ngáo ộp” do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế” như có những kẻ rắp tâm xuyên tạc và sự lệch lạc trong nhận thức và lập trường chính trị của một số người.
"Diễn biến hòa bình" có hay không? Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" hay không? Đó là do yêu cầu khách quan, xuất phát trực tiếp từ chính âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch chứ không phải do Đảng Cộng sản Việt Nam "cố tình vẽ ra". Không nên suy nghĩ một cách méo mó, xuyên tạc rằng không có "diễn biến hòa bình", để rồi lên mặt khuyên nhủ Đảng và nhân dân ta "không nên chống nữa", rằng chống "diễn biến hòa bình" là "vô duyên", là "vẽ việc ra để làm".
Kêu gọi không nên chống "diễn biến hòa bình" là một luận điệu đặc biệt nguy hiểm. Đây thực sự là sự "tiếp tay" cho việc thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; và đó cũng là một chiêu thức mới, một thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trong thực hiện "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta.
Âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam đến nay là nhất quán, nhưng đã có nhiều thay đổi, không còn giữ nguyên nghĩa như trước. Nó đã chuyển sang kết hợp thực hiện “diễn biến hòa bình" về tư tưởng, lý luận với “diễn biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực, với tiến công về chính trị, công kích trực tiếp, trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng kết hợp xuyên tạc lịch sử, lên án, phủ định sự nghiệp cách mạng và các cuộc kháng chiến chống xâm lược đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta, với việc phủ định những giá trị hiện tại, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, với việc làm lệch hướng tương lai phát triển của dân tộc. Những thủ đoạn tiến công đó được chúng kết hợp với việc sử dụng con bài pháp lý đòi Việt Nam phải thay đổi chế độ, chính sách, pháp luật quốc gia; gắn với những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, nhất là tình hình Biển Đông.
Chúng kết hợp đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” với việc khuyến khích, tạo điều kiện, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, pháp luật theo quan điểm dân chủ và giá trị phương Tây, đòi hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi tự do báo chí (ra báo, nhà xuất bản tư nhân…), tự do lập hội (đòi thành lập công đoàn độc lập), tự do hội họp, biểu tình, đòi xóa bỏ nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự liên quan đến lĩnh vực an ninh quốc gia..., cho thấy ngón đòn “diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được chúng thực thi rất ráo riết và đặc biệt nguy hiểm.
Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình” của nhân dân ta càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Tính phức tạp, khó khăn trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” biểu hiện ở chỗ, chúng ta khó phân định rạch ròi đâu là “diễn biến hòa bình”, đâu là những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta. Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính tổng hợp.
Chúng ta cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực thù địch, ngăn chặn đồng thời nhiều nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta trong hơn 70 năm qua.
Đảng và nhân dân ta vừa phải đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vừa phải ra sức khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hay nói cách khác, chống “diễn biến hòa bình” phải gắn chặt với đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 
Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính sống còn đối với chế độ xã hội và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của nước ta. Cuộc đấu tranh này dù có muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta chỉ có một sự lựa chọn, đó là: phải chiến thắng.
Muốn giành thắng lợi, trước hết chúng ta phải nỗ lực thực hiện tốt những vấn đề rất cơ bản:
Một là, giữ vững ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nâng cao khả năng "miễn dịch", sức đề kháng của cơ thể xã hội, của hệ thống chính trị, đặc biệt là của Đảng và cán bộ, đảng viên.
          Bốn là, thực hiện tốt vừa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, vừa kiên quyết ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, lấy ngăn chặn "tự diễn biến", gột rửa, loại trừ cái xấu đã lây lan làm chính. 
Năm là, thực hiện thật tốt nhiệm vụ “then chốt” xây dựng Đảng mà Đại hội XI và XII, đặc biệt Hội nghị TW4 khóa XI và TW4 khóa XII của Đảng đã xác định. Tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, nhất là xây dựng cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

“Diễn biến hòa bình” là sự thật và đặc biệt nguy hiểm, nhưng các thế lực thù địch có thể đạt được mục tiêu hay không, thì điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự khỏe mạnh, sự nỗ lực và quyết tâm của chúng ta. Như LêNin đã nói “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta” ./.

Công Chúc

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU PHI CHÍNH TRỊ HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

Gần đây có ý kiến cho rằng Quân đội là để bảo vệ nhân dân chứ không phải phục vụ cho Đảng và Nhà nước. Đây chính là biểu hiện rõ của các quan điểm thù địch, phần tử cơ hội chính trị và quan điểm sai trái, thực chất đó là mục tiêu tuyên truyền của các thế lực bên ngoài hòng làm phá hoại bản chất cách mạng của Quân đội ta.
Đầu tiên phải khẳng định rằng bất cứ quân đội nước nào cũng phục vụ nhiệm vụ chính trị và bị chính trị chi phối. Quân đội viễn chinh Hoa Kỳ bộc lộ bản chất đó ngay từ tên gọi "viễn chinh", đối tượng và môi trường tác chiến của họ thường là ở bên ngoài nước Mỹ nhưng vẫn nhằm phục vụ lợi ích cho Mỹ. Tưởng như việc tự do tham gia đảng phái hoặc không đảng phái nào là phi chính trị nhưng thực chất đó là cách chính trị hóa rất tinh vi bởi vì mục tiêu của họ vẫn không thay đổi. Quân đội của bất cứ nước nào cũng có bản chất giai cấp, phục vụ quyền lợi của giai cấp đó, chỉ có điều là quyền lợi của đảng đó, giai cấp đó có trùng với quyền lợi của dân tộc hay không thôi. Đối với QĐND VN, ngay từ khi thành lập các đội Cứu quốc quân, đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thì chủ trương của Đảng luôn lãnh đạo Quân đội tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, Đảng tổ chức, xây dựng và giao cho Quân đội nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc nên quân đội chắc chắn phải do Đảng lãnh đạo chứ không ai khác. “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” xác định “Xây dựng Quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Quân đội nhân dân Việt Nam phải được xây dựng thành quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đó là 4 mặt tạo thành chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu toàn diện của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Đây là những quan điểm cách mạng và khoa học, vừa thấy rõ vai trò của từng nội dung, vừa thấy rõ quan hệ biện chứng tạo thành sức mạnh giữa các nội dung với nhau, vừa bảo đảm xây dựng toàn diện vừa có trọng điểm, không nhấn mạnh một chiều và cũng không xem nhẹ bất cứ một nội dung nào trong quá trình xây dựng Quân đội. Quan hệ hữu cơ của bốn nội dung trên trong xây dựng Quân đội là những vấn đề đã được kiểm chứng trong thực tiễn, là cội nguồn hình thành nên bản chất cách mạng và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam: xây dựng bản chất cách mạng quân đội được xác định ngay từ những năm tháng đầu tiên hình thành " Tự vệ đỏ”, xây dựng chính quy về tổ chức biên chế, huấn luyện chiến đấu, trang bị và cấp dưỡng được hình thành ngay từ giai đoạn quân đội ta bước vào tác chiến quy mô cấp chiến dịch ( Thu Đông 1947) và được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm 1951 xác định; xây dựng quân đội tinh nhuệ và từng bước hiện đại được khái quát thành lý luận ngay trong những ngày đầu chiến tranh giải phóng. Thực hiện đúng chủ trương, đường lối này, Quân đội ta đã đi từ không đến có, không ngừng lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà sứ mệnh lịch sử giao cho trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay, âm mưu và thủ đoạn chính trị trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực là "Phi chính trị hóa Quân đội" nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đối lập Quân đội với Ðảng và nhân dân, tiến tới vô hiệu hóa Quân đội và cao hơn nữa là sử dụng Quân đội vào mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Ðể nâng cao hiệu quả phòng, chống "phi chính trị hóa" trong Quân đội nhân dân Việt Nam, cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
          1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với Quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong quân đội thực sự TSVM
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Quân đội là một nguyên tắc sống còn, là vấn đề then chốt nhất, để bảo đảm thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên phải xây dựng Ðảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, thống nhất cao và có sức mạnh chiến đấu tổng hợp. Muốn vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, những biểu hiện lệch lạc về chính trị; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, hành động hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Quân đội. Hơn lúc nào hết, Ðảng bộ Quân đội, các tổ chức đảng trong Quân đội phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo cho ngang tầm nhiệm vụ trước những biến đổi trong nước, khu vực và thế giới. Phải nâng cao trình độ, năng lực và hiệu quả lãnh đạo toàn diện, nhất là trình độ trí tuệ, trình độ lý luận..., nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
          2. Tích cực nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” và "phi chính trị hóa"; tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị
Quân đội bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Không và không thể có Quân đội "phi giai cấp" hoặc "siêu giai cấp", Quân đội "phi chính trị" hoặc "đứng ngoài chính trị". Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng, được Ðảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo. Vì vậy, Quân đội không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Ðó cũng là mục tiêu chính trị của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội ta không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn mang đầy đủ tính nhân dân sâu sắc và dân tộc chân chính. Do đó, phải gắn chặt với việc nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân; nâng cao trách nhiệm trong việc tham gia tuyển chọn và cử công dân đủ tiêu chuẩn chính trị nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cấp ủy và chính quyền các địa phương cần quán triệt sâu sắc hơn cơ chế lãnh đạo của Ðảng, chức năng quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của mình, cùng chức năng của Quân đội để khi cần thiết huy động lực lượng Quân đội tham gia giải quyết các vấn đề nảy sinh trên địa bàn, phải tuân thủ quy định của Nhà nước và của Bộ Quốc phòng, tránh huy động, sử dụng tùy tiện, sai nguyên tắc, nhất là vào những công việc không đúng chức năng, dễ làm giảm uy tín  và sức mạnh của Quân đội. 
Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, về thực chất là xây dựng bản chất giai cấp công nhân, bản chất của Quân đội cho phù hợp sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ; lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Quân đội về chính trị là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc. Trong đó, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển đất nước phải được nhận thức và thực hiện nhất quán trong toàn quân; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước ngày càng được tăng cường; chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh và khả năng chiến đấu của Quân đội phải tiếp tục được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng Quân đội về chính trị đòi hỏi sự nỗ lực, sự kiên định và bền bỉ rất cao của toàn Ðảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và bản thân Quân đội. Chống âm mưu "phi chính trị hóa" Quân đội và tăng cường xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai mặt của quá trình xây dựng Quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ đó đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chính trị, tư tưởng và tổ chức, mà then chốt là xây dựng Ðảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở cho Quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao cho.
          3. Coi trọng xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở, chú trọng đơn vị; xây dựng đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng
Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong Quân đội trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ, chiến sĩ một cách toàn diện; góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ, pháp luật, ý thức chính trị; là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng, tô thắm thêm phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Môi trường văn hoá trong Quân đội còn là màng lọc để ngăn chặn những loại văn hoá độc hại xâm nhập vào quân đội; là hàng rào vô hình, phi vật chất, từng bước hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta hiện nay và để chiến lược “diễn biến hoà bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của kẻ thù không còn đất sống. Để làm được điều đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ thực hiện cuộc vận động xây dựng “môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú” lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hoá, tinh thần của bộ đội, xây dựng ý chí quyết tâm cao vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
          4. Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, vạch trần bản chất phản động chính trị, phản khoa học âm mưu chia cắt sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội hiện nay là: Đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng vạch trần bản chất phản động chính trị, phản động khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Những luận điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về chính trị; thực chất là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta, hòng chuyển hóa lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của Quân đội. Quân đội ta không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc, no ấm cho nhân dân lao động và của cả dân tộc, đó cũng là mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội là thủ đoạn cực kì nham hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội mất phương hướng, phai nhạt mục tiêu lý tưởng chiến đấu, dẫn đến suy yếu về chính trị, bị “vô hiệu hóa”. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của kẻ thù là yêu cầu cấp bách của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ bộ mặt thật của kẻ thù, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; tăng cường, củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; tiến hành làm tốt công tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, chấp hành kỷ luật và bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc, phản động như: Internet, đĩa hình, sách báo, các diễn đàn chính trị, văn hóa; chủ động đấu tranh vạch trần luận điệu phản động, phản khoa học của các thế lực thù địch. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần, ý thức tự giác, xây dựng, củng cố niềm tin cách mạng; đẩy mạnh hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; chăm lo, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, tạo sức "đề kháng", "miễn dịch" cao cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước sự chống phá của các thế lực thù địch để Quân đội thực sự là "công cụ bạo lực sắc bén" bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xứng đáng với truyền thống: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.


Văn Ninh

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

DÂN CHỦ KHÔNG BIÊN GIỚI

Sự thật về lòng trung thành của những ai đó đã, đang tung ra luận thuyết “dân chủ không biên giới” và coi đó là chuẩn mực để thực hiện “chủ nghĩa can thiệp mới
Trong những năm gần đây chúng ta đã chứng kiếm một số thành công của mô hình “thúc đẩy xã hội nhân sự”. Lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra nhiều hội, nhóm không đúng quy định pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan chức năng, thậm trí trá hình, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thử hỏi nếu họ là những cán bộ, đảng viên “trung thành” thì tại sao có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng.
          Những việc làm trên có thể chứng minh rõ ràng họ tìm mọi phương cách nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta, tạo dựng phe cánh gây “điểm nóng” về xung đột, gây rối loạn tình hình chính trị xã hội và khi có điều kiện thì xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Việc can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thể hiện ở việc họ viện dẫn với màn kịch nhiều hồi, nhiều lớp với lý do chăm lo xây dựng nền dân chủ đem lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam.
          Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh để tự bảo vệ mình, tự giải phóng mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ vì vậy đương nhiên nhân dân Việt Nam sẽ biết nhìn nhận ai là bạn, ai là thù. Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý không ai có thể dùng ý muốn chủ quan để áp đặt. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo gần 30 năm đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế của đất nước ta ngày càng được nâng cao.
          Đất nước Việt Nam đã thay da, đổi thịt, dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thực sự khá giả song chính trị xã hội của đất nước luôn ổn định, cuộc sống thật sự hòa bình, tự do, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước./.

Văn Mạnh