Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI VẪN ĐANG CỔ VŨ, KHÍCH LỆ VÀ CHIẾU SÁNG MỤC TIÊU, CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở NƯỚC TA

Nhân kỷ niệm 99 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917/7-11-2016) và 75 năm Cuộc duyệt binh huyền thoại của Hồng quân Liên Xô (7-11-1941/7-11-2016) tại nước Nga và nhiều quốc gia trên thế giới diễn ra nhiều hoạt động kỷ niệm long trọng. Một lần nữa nhân dân yêu chuộng hòa bình và loài người tiến bộ trên thế giới đấu trang, bảo vệ trước các thế lực thù địch với CNXH và xuyên tạc ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Ðảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta ghi nhớ mãi mãi lời nói vô cùng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế".
         Ngay sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 các thế lực thù địch đã và đang chống phá quyết liệt, mưu toan phủ nhận mọi thành quả Cách mạng Tháng Mười và cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại, đó là Chủ nghĩa Mác- Lênin. Những âm mưu, thủ đoạn chống phá CNXH của các thế lực thù địch trong nhiều thập kỷ qua càng làm nổi bật tầm vóc, ý nghĩa và giá trị vạch thời đại của cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga vĩ đại.
         Cách mạng Tháng Mười đã làm rung chuyển thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại nó đã chứng tỏ mọi chế độ xã hội dựa trên nô dịch, bóc lột đều cần phải và có thể xóa bỏ, thiết lập một chế độ xã hội mới, một nhà nước kiểu mới của nhân dân lao động. Cách mạng Tháng Mười có sức động viên, cổ vũ lớn lao cho chế độ mới, động viên, cổ vũ lớn lao nhân dân lao động xây dựng chế độ mới đó. Nhân dân lao động bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, người làm dịch vụ, là lực lượng đông đảo trong dân cư, sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, lần đầu tiên đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Như thế, Cách mạng Tháng Mười không chỉ đóng khuôn tác dụng đối với nước Nga, dân tộc Nga, mà điều quan trọng hơn và sâu sắc hơn là mở ra cả một thời đại mới, thời đại của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tìm đường đem lại hạnh phúc cho nhân dân, theo đó nhanh hay chậm, trước hay sau dần dần sẽ tìm ra chân lý: đi lên chủ nghĩa xã hội. Ðúng là "Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người".(1)
         Có thể nói chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô do cuộc Cách mạng Tháng Mười mang lại, đã từng tỏ rõ những ưu việt của mình, tạo nên những quan hệ tốt đẹp giữa người với người, tạo nên bước tiến thần kỳ, chỉ trong thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc. Trong thực tiễn, chế độ xã hội tốt đẹp ở Liên Xô đã ảnh hưởng không nhỏ đến các trào lưu cách mạng trên thế giới. Và, một điều trớ trêu, khi có Liên Xô làm đối trọng, các nước đế quốc chủ nghĩa đã từng tiếp thu một số mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội để hòng khắc phục khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản, thực hiện thủ đoạn mị dân, nhằm duy trì và kéo dài chế độ tư bản chủ nghĩa.
         Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười càng lớn, thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động càng nức lòng phấn khởi, tự hào, càng trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Mười. Trong khi đó, các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội càng ra sức xuyên tạc, bôi nhọ. Từ khi Liên Xô tan vỡ, những người có lợi ích đối lập với chủ nghĩa xã hội càng hí hửng, họ tung ra luận điệu "Cách mạng Tháng Mười là sự đẻ non, là sự sai lầm của lịch sử". Thật ra, ngay từ những năm 1917, 1918, ở nước Nga các học giả tư sản cùng những người "cơ hội hữu khuynh" cũng đã từng bài xích Cách mạng Tháng Mười, họ khuyên hãy làm cách mạng tư sản đã, hãy để cho chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển hết mức đã rồi hãy làm cách mạng vô sản! Bằng lý luận và thực tiễn sống động, V.I.Lê-nin đã chiến đấu sắc bén đập tan những luận điệu phi biện chứng lịch sử đó.
         Gần một thế kỷ đã trôi qua, Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa vô cùng sâu sắc về lý luận và thực tiễn, một mặt là sự trải nghiệm chủ nghĩa Mác, vận dụng chủ nghĩa Mác, mặt khác là sự phát triển chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo. C.Mác, trong những học thuyết của mình đã chỉ ra vai trò to lớn của chủ nghĩa tư bản phủ định chế độ phong kiến, phát triển lực lượng sản xuất nhân loại, đồng thời vạch ra những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản làm cho hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không phải là vĩnh cửu, trái lại đòi hỏi tất yếu ra đời và còn tạo những tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Vì sống trong điều kiện chủ nghĩa tư bản còn đang ở giai đoạn phát triển cho nên C.Mác dự báo cách mạng vô sản phải nổ ra đồng đều ở hầu hết các nước "văn minh" thì mới có thể thắng lợi. V.I.Lê-nin sống trong thời điểm chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc. Người đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới, chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc phát triển không đều về kinh tế và chính trị, từ đó cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra thắng lợi trước tiên ở khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Và, Tháng Mười (theo lịch Nga) năm 1917, một cuộc cách mạng vô sản đã diễn ra và thắng lợi ở nước Nga rộng lớn dưới ánh sáng của lý luận và thực tiễn đó.
           Như thế Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi là phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử, chứ tuyệt nhiên không phải là sản phẩm của một ý tưởng thuần túy, không phải là một "quái dị" của lịch sử. Có thể nói, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tự nó là một thành tựu lý luận và thực tiễn, vừa bảo vệ thành công lại vừa phát triển chủ nghĩa Mác, là một sản phẩm rực rỡ sáng ngời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế.
        Một thành quả cụ thể, trực tiếp của Cách mạng Tháng Mười Nga là chủ nghĩa xã hội với tính cách một chế độ xã hội mới được xây dựng ở Liên Xô. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ấy đã tồn tại gần ba phần tư thế kỷ 20. Nhân dân lao động thế giới chăm chú theo dõi với đầy tình cảm thân yêu, ra sức bảo vệ, tìm thấy ở đấy chỗ dựa đáng tin cậy và có hiệu quả trong cuộc đấu tranh của mình. Ngược lại, các thế lực đại diện cho "thế giới cũ" thì rất hằn học và họ tìm kiếm mọi thủ đoạn để thủ tiêu. Ngày nay, sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô không còn, đã trở thành biến cố lịch sử lớn lao nhất của thập niên cuối thế kỷ 20, làm cho nhân loại tiến bộ xót xa nhưng các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội lại vui mừng khôn xiết. Chính vì ảnh hưởng vô cùng lớn lao của cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và thành quả của nó đối với thế giới, mà khi Liên Xô tan vỡ đã tác hại không nhỏ, từ đấy tình hình thế giới trở nên bất trắc, khó lường kéo dài.
          Không thể coi nguyên nhân tan vỡ Liên Xô là tại chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, chỉ có thể nói chính ở những thời điểm mà nguyên tắc xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, một đường lối sai lầm không nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội được thực hiện, nhân dân lao động Liên Xô thiếu tin tưởng ủng hộ, đã tạo thêm cơ hội cho những thế lực đen tối quay ngược bánh xe lịch sử. Phải bình tĩnh, tỉnh táo nhận xét rằng, nếu như Công xã Pa-ri năm 1871 chỉ tồn tại 72 ngày đã cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới bài học quý giá về khởi nghĩa giành chính quyền, về ý niệm sơ khai xã hội mới, thì Cách mạng Tháng Mười Nga với Nhà nước Xô-viết tồn tại 74 năm đã cho nhân loại tiến bộ bài học vô giá. Ðó là một chủ nghĩa xã hội hiện thực với những ưu điểm rất cơ bản của nó cần được giữ gìn, bảo vệ, phát huy, và cả một số khuyết điểm cần phải tránh, có thể tránh. Và, cũng phải bình tâm nhận thức rằng, Ðảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô đã lĩnh trách nhiệm đi tiên phong khai phá con đường mới, đột phá xây dựng một chế độ xã hội chưa từng có trong lịch sử, cho nên ưu khuyết, đúng sai, hay dở của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực là lẽ tự nhiên. Ðiều quan trọng là phải có một đường lối chính xác, biết phát huy cái đúng và sửa trúng cái sai. Tiếc rằng, những năm cuối cùng của thập kỷ 80 thế kỷ 20, một đường lối cải tổ sai lầm đưa Liên Xô đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cùng với những nguyên nhân quan trọng khác, đã dẫn Liên Xô đến chỗ tan rã, rút cuộc không bảo vệ và phát huy được thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
        Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cùng hoạt động cách mạng thực tiễn, đã là những yếu tố quyết định dẫn Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường đi đúng đắn của Cách mạng Việt Nam, góp phần rất quan trọng vào nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường mới, đó là: một dân tộc lạc hậu, khi điều kiện chín muồi, thì cách mạng vô sản có thể nổ ra, trước làm cách mạng giải phóng dân tộc, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên phải có sự lãnh đạo của Ðảng Mác-xít - Lê-nin-nít - chính đảng tiền phong của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười cùng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã dày công sáng lập nên Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và, ngay từ buổi đầu thành lập Ðảng, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra Chính cương vắn tắt, theo đó đã "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", (2) cũng tức là làm cách mạng dân tộc dân chủ rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội.
       Tiếp thu lý tưởng cách mạng của Cách mạng Tháng Mười cùng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ ngày ra đời đến nay, Ðảng ta luôn luôn xác định đường lối cơ bản: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Gần một thế kỷ qua, cách mạng nước ta diễn ra sôi động theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử, đem lại những biến đổi to lớn, đẹp đẽ, sâu sắc về đất nước, xã hội và con người.
       Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, và những luận điệu của những phần tử cơ hội hữu khuynh quốc tế, ở nước ta cũng có người nói "Cách mạng Tháng Mười là lỗi lầm bi thảm của lịch sử", và rằng "Cách mạng Tháng Mười có tiếp tục soi sáng con đường phát triển cách mạng của Việt nam và loài người hay không", ... Họ phủ định sạch trơn chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, phủ định sạch trơn ý nghĩa và giá trị của Cách mạng Tháng Mười. Những luận điệu đó chỉ là xuyên tạc thực tế, bôi nhọ lịch sử, phù hợp với ý đồ đen tối của các thế lực thù địch với con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Bằng cả lý trí và tình cảm, bằng cả tri thức và thực tế, chúng ta bác bỏ những luận điệu sai trái đó.
         Chúng ta phấn đấu theo lý tưởng và con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn: con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Con đường chúng ta đang đi là phù hợp với thời đại hiện nay do cuộc đại Cách mạng Tháng Mười mở ra. Thấu suốt lý luận và thực tiễn, trước biến cố lịch sử của thế kỷ 20, ngay sau khi Liên Xô tan rã, Ðại hội IX của Ðảng tiếp tục khẳng định điều mà Cương lĩnh đã chỉ ra rằng, "Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử".

         Nhân dân yêu chuộng hòa bình và loài người tiến bộ trên thế giới đang chứng kiến công cuộc đổi mới ở nước ta - một công cuộc đổi mới có nguyên tắc: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực và mọi lợi ích thuộc về nhân dân. Chủ nghĩa xã hội, Ðảng Mác-xít - Lê-nin-nít, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước kiểu mới... đó là những lý tưởng, mục tiêu, nguyên tắc, thành quả mà cuộc Cách mạng Tháng Mười mở ra và tỏa sáng. (3) Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Mười, đang cổ vũ, khích lệ, chiếu sáng mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta./.

Quốc Đạt

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

VIỆC PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG

Thời gian qua thông tin về vấn đề phân định biên giới trên biển và trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc luôn là chủ đề mà đám phản động khai thác triệt để nhằm xuyên tạc, gây hoang mang, chia rẽ và mất niềm tin. Cũng đã có nhiều bạn đăng bài nói về những vấn đề đó, song ít người được tiếp cận và thật sự buồn khi nhiều người có trách nhiệm trong ngành giáo dục, thông tin tuyên truyền, thậm chí cả trong LLVT cũng còn rất mơ hồ.
Nay xin tập hợp lại một số thông tin từ Ban Biên giới chính phủ, ông Trần Công Trục (Nguyên trưởng Ban BGCP) và Học giả Dương Danh Dy, cũng như thông tin từ khảo sát thực tế về vấn đề này để mọi người tham khảo thêm:
I. HIỆP ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN
Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài trên 1.400 km tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Biên giới này được hoạch định và phân giới cắm mốc lần đầu tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch đinh biên giới ngày 20/6/1887 và Công ước bố sung ngày 20/6/1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc).
Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết, biên giới giữa hai nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết, do diến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính trị, xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Vì vậy, đã nẩy sinh những tranh chấp hết sức phức tạp từ nhận thức khác nhau về hướng đi của biên giới cho đến lịch sử quản lý thực tế về biên giới… Chẳng hạn, lời văn mô tả và bản đồ có nơi không đầy đủ, chính xác, rõ ràng ; các cột mốc biên giới được căm từ cuối thế kỷ XIX không được xác định bằng lưới tọa độ, nhiều mốc bị hư hỏng, bị mất, xê dịch, nhiều mảnh bản đồ gốc không còn ; trên một số khu vực biên giới xẩy ra sự chuyển dịch dân cư không theo biên giới pháp lý…
Từ tình hình nói trên, nhằm xác định lại chính xác biên giới để quản lý biên giới lãnh thổ tốt hơn, tránh những tranh chấp phức tạp xẩy ra làm ảnh hưởng đến quan hệ chính trị giữa hai nước, ảnh hưởng đến môi trường hòa binh, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước…, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ tháng 11/1991, hai bên đã thỏa thuận tiến hành đàm phán hoạch định biên giới mới thay cho Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và tiến hành phân giới cắm mốc tại thực địa dựa trên nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới mới này. Quá trình đàm phán đã diễn ra như sau:
- Từ năm 1990, sau khi hai nước khôi phục quan hệ, từ 7/11/1991 đến 10/11/1991 đã ký hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới: quản lý biên giới theo tình hình thực tế; thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ; giữ mốc biên giới.
- Từ năm 1992: đàm phán lần thứ 4 diễn ra ngày 19/10/1993 ký thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước; trong thỏa thuận này, hai bên đã nhất trí mở ra 4 diễn đàn đàm phán về biên giới lãnh thổ (3 cấp chuyên viên và 1 cấp Chinh phủ) và đặc biệt đã thống nhất được căn cứ pháp lý để đàm phán là : “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và Trung Quốc ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới 20/6/1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định, cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định; đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa VN và Trung Quốc…”.
(Ta đã đấu tranh buộc Trung Quốc phải chấp nhận lấy Công ước Pháp - Thanh làm cơ sở. Trong khi với tất cả các quốc gia láng giềng khác, họ tuyệt đối không chấp nhận các Hiệp ước, công ước tương tự vì nhiều điều khoản "thiệt cho Trung Quốc" do sự yếu kém của nhà Thanh).
- Như vậy, mọi tư liệu lịch sử, bản đồ, sách giáo khoa, thậm chí cả các tài liệu chính thức đã xuất bản trước thời điểm này, nếu không được xác nhận là một bộ phận của Công ước nói trên, đều không có giá trị dùng làm căn cứ để xác định hướng đi của đường biên giới trong quá trình đàm phán lần này.
- Thực hiên Thỏa thuận nói tên, từ tháng 2/1994 đến tháng 12/1999, hai bên đã họp 6 vòng cấp Chính phủ, 16 vòng nhóm công tác liên hợp, 3 vòng nhóm soạn thảo Hiệp ước.
- Tại vòng 2 (tháng 7/1994) nhóm công tác đã trao bản đồ chủ trương, qua đối chiếu có 870 km/1360 km đường biên giới trùng nhau (67%), 436 km/1360 km, 289 khu vực không trùng nhau với tổng diện tích 236,1 km2 trong đó có 74 khu vực loại A (1,87 km2) kỹ thuật vẽ chồng lấn nhau, 51 khu vực loại B(3,062 km2) không vẽ tới, 164 khu vực loại C do quan điểm hai bên khác nhau, trong đó có một số khu vực tranh chấp trên thực địa.
- Đàm phán cấp Chính phủ vòng 6 (25-28/9/1998) thống nhất phân khu vực C thành 3 loại: khu vực Công ước đã quy định rõ ràng, khu vực một bên quản lý quá hoặc vạch quá đường biên giới, khu vực Công ước không qui định rõ ràng để xử lý theo nguyên tắc đã thỏa thuận, chẳng hạn:
1. Nguyên tắc các bên trao đổi vô điều kiện cho nhau những vùng đất quản lý quá đường biên giới: “Sau khi hai bên đối chiếu xác định lại đường biên giới, phàm những vùng do bất kỳ bên nào quản lý quá đường biên giới về nguyên tắc cần trả lại cho bên kia không điều kiện” (Phần II, điểm 3, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa, ngày 19/10/1993).
Trong quá trình phân giới cắm mốc, đối với một số khu vực nhạy cảm do có sự tồn tại của dân cư vượt qua biên giới pháp lý mới được hoạch định thì hai bên thỏa thuận thực hiện nguyên tắc giảm tối đa tác động đến khu dân cư, điều chỉnh biên giới sao cho cân bằng về diện tích, giữ nguyên hiện trạng khu dân cư, như nhà cửa, ruộng vườn, nghĩa trang mồ mả…Thực hiện nguyên tắc này, hai bên đã thỏa thuận xử lý thỏa đáng các khu vực có dân cư sinh sống ; chẳng hạn: 4 khu vực loại C diện tích khoảng 7,2 km2 có dân cư Việt Nam sinh sống quá đường biên giới pháp lý mới về phía Trung Quốc vẫn được giữ nguyên; 5 khu vực loại C với diện tích khoảng 5,7 km2 dân Trung Quốc ở quá đường biên giới pháp lý về phía Việt Nam cũng được giữ nguyên hiện trạng.
Đối với khu vực điểm cao có chốt quân sự, thì các điểm cao nằm trong lãnh thổ của nước nào thì thuộc nước đó. Đối với các điểm cao nằm ngay trên đường biên thì không bên nào được phép đóng quân, không được xây dựng bất kỳ công trình quân sự nào trên đó, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Nguyên tắc giải quyết đường biên giới trên sông suối : “Đối với những đoạn biên giới đi theo sông, suối, hai bên đồng ý sẽ tính đến mọi tình hình và tham khảo tập quán quốc tế, thông qua thương lượng hữu nghị để giải quyết” (Phần II, điểm 4, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới Việt - Trung 19 tháng 10 năm 1993). Tại vòng 5 đàm phán cấp Chính phủ, hai bên đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giai quyết đường biên giới trên sông suối giữa hai nước: Đối với những đoạn biên giới đã được Công ước 1887, 1895 xác định rõ ràng thì căn cứ vào các quy định của Công ước để xác định biên giới, cũng như sự quy thuộc các cồn bãi trên sông suối biên giới; đối với những đoạn biên giới theo sông suối chưa được Công ước xác định rõ ràng thì hai bên sẽ áp dụng nguyên tắc phô biến của Luật pháp và Tập quán quốc tế để xác định:
+ Trên các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm luồng chính tàu thuyền chạy.
+ Trên các đoạn sông suối tàu thuyền không đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm của dòng chảy hoặc dòng chính.
(Bà con có thể liên hệ với thác Bản Giốc nha, bởi nhiều người vẫn..đòi hết của người ta thành của mình)
- Hiệp ước hoạch định biên giới được hai nước Việt Nam, Trung Quốc chính thức ký ngày 30/12/1999 và được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 6/6/2000 và Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn ngày 29/4/2000. Hiêp ước này mô tả hướng đi của đường biên giới bằng lời văn và thể hiện bằng đường màu đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/500.000. Dựa vào Hiệp ước này, từ tháng 12/2001, hai bên đã tiên hành phân giới, cắm mốc.
- Đến ngày 31/12/2008, công tác phân giới cắm mốc đã cơ bản hoàn thành. Kết quả là : Chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566 km, trong đó có 383, 914 km đường biên giới đi theo sông suối ; cắm được 1971 cột mốc (so với trước chỉ có hơn 300 cột mốc nên rất khó quản lý. Biên giới Việt - Lào dài gần gấp đôi nhưng chỉ có số cột mốc bằng phân nửa), trong đó có 1628 cột mốc đơn, 232 mốc đôi cùng số và 111 mốc ba cùng số.
Phải đến năm 2010, việc cắm mốc trên thực địa mới được hoàn thành, có một số điều chỉnh vì thực tế khác với tài liệu miêu tả. Kết quả là trên thực địa Việt Nam được khoảng 55%, Trung Quốc được 45% ở những vùng có tranh chấp trước đó.
II. VIỆC PHÂN ĐỊNH KHU VỰC THÁC BẢN GIỐC VÀ ĐIỂM CAO 1509, VỊ XUYÊN - HÀ GIANG:
Khu vực thác Bản Giốc là nơi phức tạp nhất trong đàm phán phân định. Tính tổng thời gian mất tới 15 năm đàm phán cho khu vực này, có nhiều tuần 2 bên chỉ ngồi "thi gan", đấu trí qua ánh mắt chứ không hề phát biểu. Kết quả giải quyết cuối cùng: Việt Nam được toàn bộ phần thác phụ và 1/2 thác chính (lẽ ra chỉ được 1/3 vì dòng chảy sâu nhất nằm về phía Việt Nam), khu vực hạ lưu thác 2 bên cung khai thác chung. (Các bạn xem thêm nguyên tắc 2 ở mục I để hiểu thêm)
Khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng sau các trận chiến ở thập kỷ 80, Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm.
Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà hai bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này.
Đây là quyết định mang tính nhân đạo, thỏa đáng, phù hợp tập quán văn hoá 2 nước.
III. PHÂN ĐỊNH VỊNH BẮC BỘ:
Theo Hiệp định Pháp - Thanh:
“Các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105 °43, kinh độ đông, tức là đường bắc-nam đi qua điểm cực đông của đảo Tch'a Kou hay Ouan-chan (Trà Cổ) và làm thành biên giới cũng được cho là của Trung Hoa. Các đảo Go- tho và các đảo khác phía tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.
Những người Trung Hoa phạm pháp hoặc bị cáo buộc phạm pháp tìm nơi trú ẩn tại các đảo này, sẽ được, theo quy định của điều 27 của Hiệp định ngày 25/4/1886, tìm kiếm, bắt giữ và dẫn độ bởi Chính quyền Pháp.”
Như vậy, vào năm 1887, trong Vịnh Bắc Bộ, Pháp không cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển cách bờ hơn 12 hải lý. Cũng không có chứng cớ là vào thời điểm đó Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển này. Do công ước Pháp-Thanh chưa phân định phần lớn Vịnh Bắc Bộ, việc phân định Vịnh Bác Bộ là cần thiết.
Việt Nam đã đề nghị từ bỏ chủ trương khẳng định rằng trong vịnh đã có biên giới theo Công ước Pháp Thanh 1887. Thay vào đó, khi đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, sẽ theo nguyên tắc của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Đó là nguyên tắc thỏa thuận, có tính đến mọi hoàn cảnh liên quan, để phân định vịnh Bắc Bộ đảm bảo tính công bằng mà hai bên có thể chấp nhận được.
Kết quả là Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết vào ngày 25/12/2000. Hiệp định này gồm 11 điều với nội dung chủ yếu là xác định rõ tọa độ địa lý của 21 điểm trên đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế, vùng thềm lục địa giữa hai nước; quy định hai bên tôn trọng chu quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên tại các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ; quy định việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm vắt ngang đường phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán thương lượng. Hiệp định có hiệu lực ngày 15/6/2004.
Trong phần lớn vùng biển hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ, bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đối diện nhau. Vì vậy, theo luật quốc tế thì đường trung tuyến có điều chỉnh là nguyên tắc phân định công bằng nhất.
Và vì vậy, kết quả phân định như sau: Tỷ lệ diện tích Việt Nam/Trung Quốc đạt được, 1,135/1, gần tương đương tỷ lệ chiều dài bờ biển Việt Nam, Trung Quốc là 1,1/1. Cho nên, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ đã được phân định phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, hợp tình hợp lý vì nó đảm bảo được sự công bằng mà hai bên chấp nhận được.

Hiện nay, 2 bên đang tiếp tục chuẩn bị, Tổ chức các cuộc gặp để có thể phân định tiếp các khu vực có sự chồng lấn ngoài cửa vịnh Bắc Bộ

Quách Định

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

“Nên chăng” bỏ biển báo “Đèn vàng”!!!

           Bước sang tháng 11/2016, nhiều quy định mới có tác động trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống người dân, trong đó có quy định tăng mức xử phạt tiền đối với hành vi vượt đèn vàng khi tham gia giao thông đường bộ lên đến 400.000 đồng. Thực chất hành vi vượt đèn vàng đã được pháp luật nghiêm cấm, tuy nhiên hình thức xử phạt đối với hành vi này còn nhẹ, do vậy chưa thật sự tác động làm chuyển biến ý thức của người tham gia giao thông.
         Lợi dụng các quy định mới này, nhiều đối tượng xấu đã có ý định kích động người dân chống đối gây ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan chức năng thực thi pháp luật về giao thông đường bộ, nhất là việc kích động đòi xóa bỏ “đèn vàng” trong hệ thống đèn báo giao thông.
Do vậy, các cơ quan chức năng, nhất là các tổ chức quần chúng ở địa phương phải tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về các quy định mới, cụ thể là quy định mức xử phạt tiền mới đối với hành vi vượt đèn vàng. Trong đó, tập trung giải thích rõ tại sao đèn tín hiệu phải có ba màu: đỏ, vàng, xanh; công dụng của từng loại đèn báo; tác hại của hành vi vượt đèn vàng… Từ đó góp phần nâng cao nhận thức người dân; không để kẻ xấu lợi dụng kích động gây nên những phản ứng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.

Hữu Cường

Nhiệm vụ cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hóa hiện nay

Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp cho đến hiện nay thì đấu tranh tư tưởng, lý luận luôn là mặt trận quan trọng hàng đầu.Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu có nguyên nhân từ chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Để xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên phải gắn chặt với cuộc đấu tranh đánh bại các hoạt động chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, lý luận, văn hoá của các thế lực thù địch.
Do vậy, chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hoá hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nhận diện trúng, đúng từ âm mưu chiến lược, mục đích, nội dung, lực lượng, thủ đoạn chống phá ta trên mặt trận quan trọng hàng đầu này. Thực tiễn trong những năm qua các thế lực thù địch đang tăng cường sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, bằng nhiều con đường với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chống phá ta trên các hướng chủ yếu sau:
- Tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam. Họ tung ra hàng loạt các quan điểm sai trái nhằm phê phán, phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như phê phán  học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin như Học thuyết về Hình thái kinh tế – chính trị, Học thuyết Giá trị thặng dư, Lý luận về chủ nghĩa xã hội và Lý luận về thời đại và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong thời gian gần đây họ tập trung xuyên tạc vu cáo “hạ bệ thần tượng” đối với lãnh tụ của Đảng và của dân tộc ta.
- Xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, phủ nhận những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cường điệu những yếu kém, khuyết điểm của nền kinh tế - xã hội, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, đàn áp tôn giáo, kỳ thị phân biệt đối với các dân tộc thiểu số, quy kết mọi yếu kém khuyết điểm này cho sự lãnh đạo của Đảng để đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi hình thành các Đảng chính trị, các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản.
- Xuyên tạc lịch sử dân tộc, nhất là lịch sử các cuộc kháng chiến, các cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Đáng chú ý bằng các thủ đoạn tung tin, dựng chuyện đổi trắng thay đen để hòng biến cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược thành cuộc nội chiến, biến những kẻ bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” thành người yêu nước!!
- Tuyên truyền xuyên tạc đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối bảo vệ Tổ quốc và đường lối đối ngoại của Đảng ta.
- Tăng cường truyền đạo trái phép nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số để nắm quần chúng và kích động ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết kết dân tộc .
-  Đẩy mạnh các hành động “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá” để áp đặt các giá trị văn hoá và lối sống của nước ngoài, phá hoại bản sắc văn hoá của dân tộc. Đáng chú ý, thông qua mạng internet, thông qua các kênh chiếu phim, các chương trình ca nhạc, vui chơi giải trí, hệ thống xuất bản phát hành để truyền bá lối sống ích kỷ vụ lợi, xa hoa, truỵ lạc, bạo lực.
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, sự lây lan ghê gớm của các cuộc “cách mạng màu” ở Trung Đông càng kích thích các thế lực thù địch tăng cường đầu tư tiền bạc, lực lượng phương tiện cho các cuộc tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận, văn hoá. Họ đã công khai tuyên bố: Đầu tư 1 USD cho mặt trận này hiệu quả hơn đầu tư 10 USD cho quân sự! và “Đánh thắng chủ nghĩa cộng sản không bằng chiến tranh”!!
Để thực hiện âm mưu, ý đồ trên, các thế lực thù địch đã xây dựng và sử dụng tổng hợp các lực lượng, các phương tiện, các thủ đoạn cho chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Về lực lượng: Họ tăng nhanh số lượng chuyên gia tư tưởng, chuyên gia tâm lý chiến” tập trung cho nhiệm vụ chống phá ta trên lĩnh vực này, đáng chú ý, họ còn tăng cường lôi kéo, mua chuộc, khống chế và lợi dụng một số cán bộ, đảng viên, trí thức, chức sắc tôn giáo, sinh viên của ta.
Về tổ chức: Trên cơ sở tăng cường phối hợp các tổ chức phản động ở các nước chống phá ta trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền dân tộc tôn giáo, họ đẩy mạnh việc mua chuộc, lôi kéo, tranh thủ, lợi dụng một số cán bộ chuyên gia trong một số cơ quan, tổ chức của ta trên lĩnh vực tư tưởng lý luận văn hoá (nhà xuất bản, ban biên tập báo, phát hành sách, phát thanh truyền hình, phim…)
Về phương tiện: Khai thác triệt để mạng internet, các phương tiện truyền thông, công nghệ tin học để chuyển tải các quan điểm sai trái, các ấn phẩm văn hoá độc hại.
Về thủ đoạn: Triệt để lợi dụng các hoạt động đầu tư, hợp tác kinh tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, thông qua các chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học, các chương trình nhân đạo đáng chú ý họ lợi dụng các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực luật pháp, nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn. Trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch trên cơ sở tăng cường sử dụng tổng hợp triệt để các thủ đoạn: Lợi dụng các ngày kỷ niệm các sự kiện lịch sử để tuyên truyền xuyên tạc lịch sử; Lợi dụng việc toàn dân góp ý bổ sung sửa đổi Hiến pháp 2013 để tuyên truyền phủ định những vấn đề cơ bản cốt lõi trong Hiến pháp của ta. Họ sử dụng triệt để thủ đoạn biên tập, biên dịch và phát hành một số sách văn học nghệ thuật, khoa học xã hội có quan điểm sai trái. Họ khai thác triệt để hình thức các sách hồi ký và phỏng vấn các nhân chứng, các nhân vật cơ hội chính trị…
Nhận diện và đánh giá các thủ đoạn phương tiện và hậu quả của các hành động “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá” đối với Việt Nam, tiến sĩ kinh tế Nga Vơlađimia Mazyrin đã viết bài “Phương tây đe doạ sự ổn định của xã hội Việt Nam”. Đài phát thanh Tiếng nói nước Nga đã phát bài này ngày 14/3/2013. Trong bài này, V.Mazyrin có một số nhận định đáng chú ý: “Nền văn minh và phong cách sống phương tây ngày càng ảnh hưởng đến thanh niên Việt Nam, đe doạ, phá huỷ sự ổn định của xã hội Việt Nam”; “Những giá trị phương tây và văn hoá của họ đã thâm nhập vào xã hội Việt Nam thông qua phương tiện truyền thông, internet, cũng như công nghệ thông tin và giao tiếp hiện đại. Điều này đặc biệt nhạy cảm với giới trẻ ngày nay. Những ảnh hưởng tác động này đã tăng đáng kể trong vòng vài năm qua”; “Văn hoá phương tây ngày nay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam… giới trẻ Việt Nam đang đánh mất hứng thú trong việc tích cực học tập và lao động. Đã xuất hiện việc coi thường pháp luật và suy yếu trật tự xã hội”; “Trong xã hội hình thành rõ xu hướng làm tổn hại các giá trị gia đình và các mối quan hệ. Các gia đình truyền thống nhiều thế hệ nhanh chóng tan rã và số con của mỗi cặp vợ chồng đang ngày một ít đi. Tốc độ tăng trưởng dân số ở Việt Nam đã giảm từ 3% cách đây 20 năm xuống còn 1%. Thêm vào đó là sự thâm nhập vào đất nước này thời trang Châu Âu vốn lạ lẫm với truyền thống và khí hậu Việt Nam cũng như các hình thức vui chơi giải trí phương tây. Đó là tự do tình dục với kết quả gần 50.000 ca phá thai hàng năm trong số trẻ vị thành niên. Việc tiêu sài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất là những nét không hoàn toàn đặc trưng cho những người Việt Nam cần kiệm. Tình trạng coi trọng ăn uống và nhậu nhẹt say sưa phổ biến trong những người trẻ tuổi dẫn đến kết quả tất yếu là bệnh béo phì. Nền tảng xã hội truyền thống và văn hoá Việt Nam đang dần dần bị huỷ hoại. Sự ảnh hưởng của nền văn minh hiện đại dưới hình thức các giá trị của xã hội phương tây làm gia tăng nguy cơ khó kiểm soát trong lĩnh vực chính trị xã hội và sự mất ổn định”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và quần chúng, rõ ràng là có nguyên nhân từ sự tác động của chiến lược "diễn biến hoà bình" trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, tác động của “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá”.
Trong bối cảnh hiện nay, trên cơ sở nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá ta trên lĩnh vực tư tưởng lý luận văn hoá thì nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận văn hoá phải được tiến hành kiên quyết và đồng bộ trên những hướng chủ yếu sau:
Một là: Đội ngũ cán bộ và các cơ quan nghiên cứu lý luận ra sức tu dưỡng rèn luyện kiên định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, nắm vững phương pháp biện chứng duy vật, đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Trước hết, trả lời có sức thuyết phục những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nhiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời chuẩn bị các luận cứ khoa học, có sức thuyết phục cao, phê phán, bác bỏ các quan điểm tư tưởng sai trái.
Hai là: Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống chính trị của nước ta. Phải đổi mới cả nội dung, phương pháp giảng dạy và đổi mới cả đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tất cả phải nhằm mục đích: Hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin có cơ sở khoa học và thực tiễn vào cương lĩnh, đường lối của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Ba là: Đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách của toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp phải đổi mới mạnh mẽ việc giáo dục đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước gắn chặt với giáo dục sâu sắc tinh thần cảnh giác cao cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời phát hiện, chủ động tấn công đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Bốn là: Đội ngũ cán bộ và các cơ quan báo chí phát thanh truyền hình xuất bản, phát hành, thông tin tuyền thông phải làm tròn vai trò chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng; Nâng cao hơn nữa trách nhiệm lãnh đạo, quản lý, sắp xếp lại, quản lý chặt chẽ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc chức năng nhiệm vụ báo chí cách mạng: là người tuyên truyền tập thể, giáo dục tập thể, tổ chức tập thể thực hiện cương lĩnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cung cấp thông tin nhanh – chính xác, kịp thời cho nhân dân; là diễn đàn của nhân dân. Đồng thời phải phê phán phản bác có sức thuyết phục, kịp thời mọi quan điểm sai trái, vạch trần lên án mọi âm mưu thủ đoạn diễn biến hoàn bình trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Năm là: Các cơ quan, đơn vị, tổ chức văn hoá, đội ngũ văn nghệ sĩ phấn đấu tạo ra những tác phẩm, công trình văn hoá, văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao tạo rung cảm sâu rộng bồi dưỡng hướng dẫn mọi con người vươn tới chân thiện mỹ. Kiên quyết lên án phê phán đấu tranh với cái giả, cái xấu, cái ác. Mỗi thắng lợi thực tế trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá – hiện đại hoá và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong sự nghiệp xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi triệt để trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận văn hoá hiện nay.

  Ngọc Hùng

LỢI DỤNG TỆ THAM NHŨNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Như chúng ta biết, tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kể cả ở nước nghèo và nước giàu, quốc gia phát triển, đang phát triển hoặc kém phát triển; không phân biệt do một đảng hay do đa đảng lãnh đạo.
Ở Việt Nam chúng ta, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành,… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong những năm trở lại đây, Đảng ta đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, nhiều biện pháp đã được thực hiện và đi vào cuộc sống, trở thành phương thuốc hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng.
Tuy nhiên ở phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập về thủ đoạn lợi dụng tệ tham để chống phá Việt Nam chúng ta của các thế lực thù địch, nhất là trên phương tiện in-tơ-nét.
Hiện nay đại đa số bộ phận Nhân dân ta thường xuyên tiếp xúc in-tơ-nét, hẳn không xa lạ với những thông tin, bài viết có nội dung đề cập đến hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam được đăng tải trên các trang mạng, blog, wesite,… của một số cá nhân, hội, nhóm tự xưng là những nhà hoạt động “vì dân”, “vì nước”, v.v. Nhìn vào những thông tin, bài viết của các hội, nhóm, cá nhân trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nó thường mang nặng sự suy diễn chủ quan, tô vẽ, thổi phồng, thậm chí xuyên tạc trắng trợn tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Để lôi kéo người dân “tin tưởng” vào các luận điệu xuyên tạc, các hội, nhóm, nhà hoạt động trên thường lợi dụng những vụ án tham nhũng liên quan đến cán bộ, đảng viên đã xảy ra hoặc những sự việc tiêu cực trong xã hội để suy diễn, quy kết “do tham nhũng” và thổi phồng cho đó là tình trạng “phổ biến”, “bản chất” của chế độ xã hội chủ nghĩa, một “căn bệnh” do cơ chế độc đảng lãnh đạo, do “năng lực quản lý yếu kém” của Nhà nước, v.v. Chúng suy diễn rằng, có sự “bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” của lãnh đạo, chính quyền các cấp nên nó mới lộng hành như vậy; chúng còn lập riêng một số website, blog để đăng tải bài viết, hình ảnh xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ về đời tư, sự minh bạch của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. Với mục đích chúng nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo “Hoài nghi” về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội. Đi đôi với luận điệu xuyên tạc trên của các nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền” là những lời hô hào, xúi giục nhân dân “đoàn kết”, “đứng lên đấu tranh đòi tự do, dân chủ”; kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thay đổi: “Cương lĩnh”, “thể chế chính trị”, “mô hình lãnh đạo”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, v.v.

Vì vậy, là những người Việt Nam yêu nước, chúng ta phải có trách nhiệm, góp cả công sức và trí tuệ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ nước nhà ngày càng vững mạnh. Trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm, nhưng trách nhiệm đó phải được đặt đúng chỗ, đúng pháp luật thì mới đem lại hiệu quả cao. Tránh tiếp thu các thông tin một cách phiến diện, không suy nghĩ thật kĩ, thấu đáo,… mà có những suy nghĩ, bình luận, việc làm vội vã, không đúng, vi phạm pháp luật, nhất là vô tình góp phần cho các thế lực thù địch đạt được mục đích của họ.
Đình Quang

Vẫn là trò xuyên tạc, lừa bịp dư luận

Hiện tượng mượn danh đấu tranh cho dân chủ của một số phần tử cơ hội chính trị ở Việt Nam lâu nay không còn lạ đối với dư luận. Những người này thường nhân cơ hội trong nước xảy ra một sự việc gì đó thì dựa vào để viết bài, tung lên mạng xã hội, hoặc đăng tải trên một số trang tin lâu nay vẫn có tư tưởng thiếu thiện chí, thù địch với Việt Nam.
Trong các bài viết, họ thường phân tích, suy thế này, luận thế kia một cách hoàn toàn chủ quan, từ hiện tượng mà suy thành bản chất, sau đó đưa ra những kết luận theo kiểu: Xảy ra các sự cố đó là do “sự yếu kém trong bộ máy lãnh đạo của Đảng”, “sự hạn chế trong điều hành của Chính phủ”... Nhằm che mắt người đọc, trong các bài viết, họ thường bịa ra các con số để minh họa cho các nhận định mà nếu không tìm hiểu kỹ thì người đọc rất dễ bị nhầm lẫn. Bài viết của Nguyễn Vũ Bình, đăng trên RFA vừa qua là một dạng như vậy.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Vũ Bình đã vừa xiên xẹo về công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), vừa đưa ra những nhận định hết sức mơ hồ về cái gọi là “sự sụp đổ của Đảng Cộng sản”. Những con số mà Nguyễn Vũ Bình đưa ra để minh chứng cho các nhận định của mình trong bài viết thì lại càng lố bịch. Chẳng hạn, Bình cho rằng hiện nay, đất nước ta đang duy trì lực lượng vũ trang với số quân lên tới “10 triệu người”; rồi lại cho rằng đội ngũ công chức, viên chức lên tới “15 triệu người”... Đây quả thực là những con số phi lý và hoang tưởng. Bởi trên thế giới này, không một đất nước nào có thể làm một việc vô lý, đó là trong thời bình mà lại duy trì một đội quân thường trực lên tới hơn 11% dân số. Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta bước vào giai đoạn cuối-giai đoạn cần một lực lượng lớn nhất để thực hiện đòn quyết chiến chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thì lực lượng vũ trang của chúng ta cũng không đạt đến con số 10 triệu người...

Còn về con số “15 triệu người trong bộ máy Đảng, Nhà nước” như Bình đã viết thì thực tế tính đến hết năm 2015, lãnh đạo Bộ Nội vụ cho biết, cả nước có khoảng 11 triệu người hưởng lương và tính chất lương (bao gồm cả lực lượng vũ trang, y tế, giáo dục v.v..). Còn tổng số công chức hưởng lương trong hệ thống chính trị từ cấp huyện trở lên (không bao gồm lực lượng vũ trang) được Thủ tướng phê duyệt năm 2015 chính thức là 277.055 người. Và con số này tiếp tục giảm trong năm 2016 khi Nhà nước ngày càng thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế để bảo đảm bộ máy ngày càng tinh gọn theo hướng chỉ bổ sung không quá 50% số công chức so với số nghỉ hưu... Như thế có thể thấy, việc Nguyễn Vũ Bình cố tình bịa ra những con số hoang đường về lực lượng vũ trang và đội ngũ công chức, viên chức... là nhằm tạo ra sự hiểu lầm trong dư luận về hệ thống tổ chức chính trị ở Việt Nam. Và cũng từ đây có thể thấy, những điều Bình nhận định trong bài viết về các vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam... đều nhằm mục đích xuyên tạc, lừa bịp dư luận.
Minh Tâm