Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

Tham nhũng

Tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Hiện nay các thế lực đang lợi dụng công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện toan tính, đẩy mạnh đầu tư, hiện đại hóa trang thiết bị, các phương tiện thông, truyền thông nước ngoài để phát tán tài liệu, tuyên truyền quan điểm xuyên tạc, vu cáo, gieo rắc thông tin xấu, độc hại hòng làm nhiễu loạn đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội, làm nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Gần đây, trên nhiều trang mạng xã hội đăng tải khá nhiều bài, tin, tranh ảnh chống phá công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước, tung tin, bịa đặt, vu khống lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân gieo rắc hoài nghi, bi quan, bất bình trong nhân dân. Nhưng thực tiễn luôn là một chân lý để chứng minh cho quyết tâm của Đảng ta trong công tác phòng, chống tham nhũng ngày càng được đẩy mạnh và đạt hiệu quả cao. Với các giải pháp, bước đi được thực hiện một cách bài bản, kiên trì, kiên quyết, thường xuyên, liên tục đã và đang đạt nhiều kết quả tích cực, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội. Chống tham nhũng đã trở thành một phong trào, một xu thế không ai có thể đứng ngoài cuộc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa cháy trước rồi cả lò nóng lên. Tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu và không thể đứng ngoài được. Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được.
Bây giờ không còn tình trạng làm cho có như nhiều người nghĩ. Đảng ta đã rút ngắn được quãng đường giữa nói và làm, từng bước đang loại bỏ những “con sâu” tham nhũng, tiêu cực ra khỏi bộ máy. Qua nhiều việc vừa qua, Đảng đã chứng minh không có vùng cấm trong xử lý cán bộ, dù ở cấp nào, cương vị nào, cả nghỉ hưu lẫn đương chức và được thực hiện trên diện rộng. Bên cạnh đó, công tác điều tra, kết luận đều làm một cách minh bạch, công khia để nhân dân cùng theo dõi, giám sát. Cách làm này đã nhận được sự ủng hộ, đồng tình cao của dư luận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nàh nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Cuộc đấu tranh có thể còn nhiều khó khăn, bởi các thủ đoạn tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ vào cuộc của nhân dân, của cả hệ thống chính trị, chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, xây dựng một xã hội giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phản bác luận điệu xuyên tạc

Vừa qua trên trang mạng Việt Tân đã chia sẽ 1 video có hình ảnh 1 xe du lịch đâm vào 1 người đi đường rồi sau đó dùng hung khí hành hung người đàn ông đó đến ngất xỉu, Blogger Thach Vu đã viện chứng hành động đó liên quan đến Việt Nam như Xã hội VN đang tiến nhanh đến chuẩn mực này. Thành phần tiên tiến đã đến đích là lực lượng công an và học sinh trung học”.
Bên cạnh đó, trang Chan Troi moi Media đã có bài xuyên tạc chế độ, khi bôi nhọ hình ảnh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, so sánh cách thức cầm quyền của Đảng ta trước kia và bây giờ.
Có thể nói, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay trong Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930 và trong tất cả các kỳ Đại hội, Đảng ta đã luôn nhất quán kiên mục tiêu đó là phải nắm quyền lãnh đạo, tuyệt đối, trực tiếp các tổ chức vũ trang cách mạng không thông qua khâu trung gian nào: “Luôn luôn giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của đảng trong Tự vệ thường trực…”.
Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản cũng đã chỉ rõ phải giữ quyền lãnh đạo, tuyệt đối, trực tiếp của Đảng cộng sản với quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân.
Thực tiễn qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự giáo dục, rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, qua từng giai đoạn dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào Lực lượng vũ trang vẫn luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhân dân, là lực lượng trung thành, tin cậy của cả dân tộc, vì nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ cùng toàn Đảng, toàn quân tiến hành khởi nghĩa vũ trang cách mạng Tháng 8 năm 1945, đánh thắng thực dân Pháp xâm lược qua Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, tiến tới đánh đuổi  đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn 70 năm qua, Lực lượng vũ trang ta luôn tận trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, dân tộc ta, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Những luận điệu mà các phần tử cơ hội, thù địch đưa ra hòng xuyên tạc, kích động gây chia rẽ sự đoàn kết trong nội bộ Đảng ta. Để đảm bảo đưa nước ta tiến lên xã hội chủ nghĩa vấn đề cốt yếu là giải quyết tốt hài hòa mối quan hệ phát triển kinh tế nhanh, bền vững, kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh, trong đó phải đảm bảo sự lãnh đạo, tuyệt đối, trực tiếp, chặt chẽ của Đảng đối với các lực lượng vũ trang trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào, có như vậy sẽ xây dựng Lực lượng vũ trang luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, đập tan mọi thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thù địch, bảo vệ thành quả công cuộc đổi mới mà Đảng, nhân dân ta lựa chọn./.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐỐI TƯỢNG, ĐỐI TÁC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, đất nước ta vẫn phải đối diện với rất nhiều nguy cơ, thách thức trên mọi lĩnh vực; đồng thời, phải đứng trước sự lựa chọn, phân định bạn - thù, đối tác - đối tượng, để định hình chiến lược, sách lược; đề ra và triển khai có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại; bảo vệ lợi ích của dân tộc và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
          Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” một trong những quan điểm cơ bản xuyên suốt quá trình thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; trở thành một quan điểm chỉ đạo đã thể hiện sự đổi mới tư duy quan trọng của Đảng, phù hợp với điều kiện, bối cảnh và xu thế thời đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này cũng phù hợp với một trong những mục tiêu xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là, lấy giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là mục tiêu cao nhất của cách mạng. Trong đó, Đảng ta đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta. Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài, nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt đối tác nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
          Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Quan điểm trên của Trung ương Đảng vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa, nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:
          Thứ nhất, quan điểm về đối tác. Đảng ta khẳng định: “... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.
          Thứ hai, quan điểm về đối tác.
          Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003, xác định “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta”. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số 28-NQ/TW “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, ngày 25-10-2013 đã cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” của quan điểm trước đây và khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”.
          Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác. Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu “... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng đã khẳng định “trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Đảng ta đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng. Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác.
          Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta. Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác mà Trung ương Đảng đề ra trong Nghị quyết 28-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh” nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.
          Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với nhiều quốc gia trên thế giới; trong đó có các nước lớn, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta kiên trì giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các tranh chấp, nhất là các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), không để xảy ra xung đột, đối đầu, nhằm kiến tạo và củng cố môi trường hòa bình để phát triển đất nước; đồng thời, kiên quyết đấu tranh để giữ vững chủ quyền, lãnh thổ. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức về đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh còn bộc lộ một số hạn chế. Trong lúc tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang là vấn đề nổi cộm, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có xu hướng chỉ quan tâm đến đối tượng có ý đồ và hành động xâm chiếm biển, đảo, mà xem nhẹ, chưa thấy hết sự nguy hại của đối tượng “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoặc ngược lại.

          Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc. Vì vậy, đòi hỏi quân đội nói chung, các đơn vị trong toàn quân nói riêng ngày càng phải khẳng định rõ vai trò, trách nhiệm của mình, tập trung mọi nỗ lực xây dựng tổ chức Đảng TSVM, đơn vị VMTD./.

PHÒNG CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN” TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

“Tự diễn biến” là hình thức hoạt động tự phát diễn ra theo chiều hướng không có lợi trong các tổ chức, cá nhân ở nước ta. Đó chính là biểu hiện của mâu thuẫn nội tại, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Hình thức biểu hiện của tự diễn biễn là mất đoàn kết nội bộ, một số cán bộ, đảng viên vì tham vọng quyền lực, địa vị nên sinh ra kèn cựa, tranh giành nhau bằng mọi giá kể cả việc dựng chuyện, xuyên tạc, nói xấu, hạ bệ uy tín của nhau để tôn mình lên vị trí lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan, đơn vị. Tự diễn biến còn có biểu hiện đoàn kết theo kiểu “kéo bè, kéo cánh”, “cục bộ địa phương” nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân của một số người, nhóm người.
Chung quy lại, tự diễn biến có nguồn gốc từ chủ nghĩa cá nhân nhằm tranh giành lợi ích và ảnh hưởng với nhau. Bác Hồ từng chỉ rõ: “chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây: bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh, bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ”. Chính vì lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ nên nhiều cán bộ, công chức đã xa rời nguyên tắc tổ chức kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, các quy định của Trung ương và địa phương, vi phạm các chuẩn mực về phẩm chất đạo đức, lối sống, tham ô, hủ hóa, gian lận bằng cấp, chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, gây nhũng nhiễu cơ quan, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước. Các thế lực thù địch rất chú ý tận dụng những điểm yếu này của một bộ phận cán bộ, đảng viên ta do thoái hóa biến chất hoặc mơ hồ mất cảnh giác để tác động vào, hòng gây mất ổn định chính trị xã hội. Đấu tranh chống tự diễn biến trước hết là đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống lợi ích nhóm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Để đấu tranh thắng lợi, người đảng viên, cán bộ, công chức phải gương mẫu, luôn đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, nâng cao giác ngộ chính trị, ý thức chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước, tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không để các mặt trái của cơ chế thị trường tác động vào.
Bên cạnh đó, mỗi người cần nâng cao cảnh giác, phòng, chống có hiệu quả âm mưu “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng, từng cán bộ, đảng viên và các cấp ủy đảng phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ, gương mẫu trước quần chúng nhân dân, nói phải đi đôi với làm, nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng, đúng pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, gương mẫu ở mọi nơi, mọi lúc, có như vậy mới khích lệ, động viên quần chúng học tập noi theo. Các cơ quan chức năng cần tăng cường làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kịp thời xác minh làm rõ dư luận xấu đối với mỗi cá nhân, tổ chức, có biện pháp xử lý nghiêm những người tung tin bịa đặt, vu cáo người khác, gây mất đoàn kết nội bộ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong bộ máy nhà nước và trong các tổ chức quần chúng.

Tổ chức đảng các cấp thường xuyên nắm, quản lý, giáo dục, rèn luyện chặt chẽ cán bộ, đảng viên, duy trì thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình đồng thời phát huy vai trò giám sát của quần chúng trong đơn vị và nhân dân địa phương nơi cán bộ, đảng viên cư trú, phòng ngừa có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên và trong các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta.    

Cảnh giác với chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng trong Quân đội hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch luôn coi Việt Nam là một trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, mà mũi nhọn chống phá nhằm vào lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Chúng công kích, xuyên tạc, phủ nhận vai trò chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, chế độ XHCN. Trong đó, đối tượng hàng đầu mà chúng tập trung chống phá quyết liệt là Quân đội nhân dân Việt Nam.
Với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chống phá toàn diện quân đội, nhưng trước hết nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội; xuyên tạc, phủ định mục tiêu, lý tưởng và bản chất, truyền thống của quân đội; phá hoại mối đoàn kết mật thiết giữa quân đội với nhân dân và tình đoàn kết quốc tế, làm cho quân đội giảm sút sức mạnh chính trị, tinh thần, không còn là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị tin cậy và trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thủ đoạn của chúng là dùng mọi phương tiện, biện pháp mà trước hết là lợi dụng ưu thế về phương tiện thông tin hiện đại, với một số lượng lớn các đài phát thanh, các loại sách, báo, internet, các trang mạng xã hội... tập trung xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Điều nguy hiểm là chúng âm mưu tạo ra sự thờ ơ về chính trị trong cán bộ, chiến sĩ, trong đó tập trung vào đối tượng quân nhân là thanh niên, chiến sĩ mới. Bằng các thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận các giá trị tốt đẹp của cách mạng, của dân tộc, chúng muốn làm cho thế hệ quân nhân trẻ hiện nay quên đi quá khứ hào hùng của Đảng, của dân tộc, hấp thụ các giá trị văn hoá, tư tưởng lối sống tư sản, từ đó đối lập với các thế hệ quân nhân đi trước, quay lưng lại với cách mạng, với Đảng.

Việc các thế lực thù địch, phản động và bọn cơ hội xuyên tạc đang muốn tìm cách xóa nhòa bản chất Bộ đội Cụ Hồ, chỉ càng làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam càng tăng thêm lý tưởng cách mạng trong sáng, giác ngộ chính trị, bản lĩnh vững vàng, ý chí quyết tâm cao để tạo sự “miễn dịch” cần thiết, tăng sức “đề kháng”, ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc.

CẦN CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC THÔNG TIN BỊA ĐẶT, VU KHỐNG

Bằng chiêu bài “châm ngòi” quen thuộc, gần đây những kẻ cơ hội, phản động lại làm dư luận cả nước “dậy sóng” vì những thông tin sai lệch liên quan đến Sân golf  Tân Sơn Nhất (TSN). Số lượt chia sẻ chóng mặt trên mạng xã hội cho những bài viết được gọi là “phóng sự điều tra” vô hình chung đã tung hỏa mù, làm rối loạn thông tin, nói xấu Đảng, Quân đội, gây chia rẽ mối đoàn kết giữa Nhân dân với Quân đội, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vậy, thực hư câu chuyện như thế nào, chúng ta cần phải nói lại cho rõ.
Trước hết, việc xây dựng sân golf xuất phát từ việc Quân đội tận dụng đất dự trữ quốc phòng trong thời bình còn nhàn rỗi để phát triển kinh tế - xã hội, du lịch, thể thao, dịch vụ nhằm tăng thu cho ngân sách Nhà nước và Quân đội, tạo việc làm cho người lao động, góp phần phát triển đất nước. Thực tế các nước trên thế giới hiện nay cũng đều tận dụng quỹ đất trong sân bay để xây dựng các công trình phụ trợ, vui chơi giải trí như: xưởng nấu bia trong sân bay Munich – Đức, vườn xương rồng trong sân bay Changi – Singapore, bể thủy sinh ở tầng 3 sân bay Vancouver – Canada hay bể bơi trong nhà tại sân bay Hamad – Doha – Quatar...
Thứ hai, Sân golf TSN được triển khai xây dựng đúng quy định theo Quyết định số 1946/QĐ-TTg, ngày 21/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch sân golf Việt Nam đến năm 2020. Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM), trong buổi tiếp xúc cử tri huyện Củ Chi ngày 25/6/2017 cũng khẳng định việc xây dựng sân golf trong Sân bay TSN là đúng quy định, Bộ Quốc phòng (BQP) đã trình Chính phủ và các bộ, ngành liên quan thẩm định, phê duyệt.
Thứ ba, dư luận quân tâm việc xây dựng sân golf trong khu vực Sân bay TSN trong khi sân bay này thường xuyên quá tải và việc xây dựng một số công trình phụ trợ trong sân golf có thể dẫn đến nguy cơ mất an toàn bay. Về vấn đề này, trong những năm qua BQP đã tích cực, chủ động điều chỉnh thế trận quân sự, quốc phòng, quy hoạch lại doanh trại, vị trí đóng quân của một số đơn vị để bàn giao đất quốc phòng cho một số bộ, ngành và TPHCM, góp phần khắc phục quá tải cho Sân bay TSN, cụ thể: Từ năm 2004 đến 2007 bàn giao 10,5ha cho UBND TPHCM để mở đường giao thông đô thị. Từ năm 2007 đến năm 2017 bàn giao 98,62ha cho Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) xây dựng đường lăn, sân đỗ, khu bảo đảm hạ tầng kỹ thuật hàng không; chỉ đạo Quân chủng Phòng không – Không quân tháo dỡ nhiều vòm ụ, hăng ga để tạo mặt bằng thông thoáng và quỹ đất để Bộ GTVT quy hoạch, xây dựng sân đỗ phục vụ hàng không dân dụng.
Ông Lê Đình Thọ, Thứ trưởng Bộ GTVT, khi trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân, số ra ngày 10/6/2017 cho biết “Trong quá trình lập quy hoạch điều chỉnh Cảng hàng không Quốc tế TSN, BQP và Bộ GTVT đã nhiều lần trao đổi, rà soát hiện trạng đất để sử dụng có hiệu quả nhất đất quốc phòng cho phát triển hàng không dân dụng”. Tại cuộc làm việc với UBND TPHCM ngày 23/6/2017, Thượng tướng Lê Chiêm – Thứ trưởng BQP đã khẳng định, quan điểm của BQP là ưu tiên phát triển hàng không dân dụng, chỗ nào không cần thiết thì sẵn sàng bàn giao cho thành phố để phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, không phải là BQP không chịu bàn giao đất để mở rộng sân bay, phát triển kinh tế - xã hội như một số trang mạng và cá nhân đã phao tin.
Thứ tư, BQP đã chỉ đạo dừng xây dựng 5 hạng mục (Tổ hợp khách sạn, nhà hàng; Trường cấp 1, 2; Nhà trẻ, mẫu giáo; Khu căn hộ 8 tầng; Khu biệt thự) trong tổng số 13 hạng mục dự án sân golf. Tiếp tục thực hiện triệt để ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp ngày 12/6/2017 về việc dừng hoạt động xây dựng các công trình liên quan hạ tầng phụ trợ sân golf. Như vậy, BQP đã thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng, Nhà nước về gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh; quan điểm của BQP là rất quyết liệt, không sợ đụng chạm như các thế lực phản động đã rêu rao.
Thứ năm, thành lập ngày 29/6/2006, Công ty cổ phần đầu tư Long Biên (LOBICO - Trụ sở tại Phúc Đồng – Long Biên – Hà Nội) – Chủ đầu tư sân golf TSN, có vốn điều lệ 200 tỉ đồng, gồm các cổ đông: Công ty TNHH một thành viên đầu tư và phát triển Trường An (BQP), Công ty cổ phần Him Lam, Tổng Công ty cổ phần thương mại xây dựng, Công ty TNHH xây dựng và thương mại Thành Nam, Công ty TNHH đầu tư xây dựng Bảo Lộc. Tuy nhiên, đến ngày 15/11/2014, LOBICO tăng vốn điều lệ lên 950 tỉ đồng, chỉ còn các cổ đông là ông Trần Văn Tĩnh – Phó Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Him Lam 48,5%, bà Dương Thị Liên – thành viên HĐQT Him Lam 10%, bà Lê Thị Bích Ngọc – Giám đốc kinh doanh tại Him Lam 26,5% và Công ty cổ phần kinh doanh địa ốc Him Lam giữ 15% do ông Nguyễn Ngọc Thủy làm đại diện quản lý phần vốn góp. Như vậy, theo chỉ đạo của BQP, Công ty Trường An đã không còn góp vốn, hiện nay chủ đầu tư sân golf TSN không phải là BQP và không có cái gọi là “Sân golf TSN trở thành biểu tượng cho sự mâu thuẫn lợi ích giữa Quân đội và Nhân dân” như báo BBC Tiếng Việt rêu rao.
Thứ sáu, hiện có 3 phương án mở rộng sân bay TSN. Các phương án 1, 2 mở rộng sân bay về phía Bắc (Khu vực sân golf) và phương án 3 là về phía Nam. Theo đó, Phương án 1 với tổng mức đầu tư trên 200.000 tỉ đồng, ảnh hưởng 140.000 hộ dân, giải phóng 616ha mặt bằng. Phương án 2, tổng mức đầu tư từ 100.000-187.000 tỉ đồng, ảnh hưởng 25.400-68.000 hộ dân, giải phóng từ 326-561ha mặt bằng. Phương án 3, xây dựng nhà ga T4 ở phía Nam, tổng mức đầu tư 16.000 tỉ, thời gian thi công ngắn (từ 2 đến 3 năm), diện tích chuyển đổi ít (14,5ha). Như vậy, mở rộng sân bay theo Phương án 3 là khả thi, và đây cũng là phương án được Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) lựa chọn trong Báo cáo tiền khả thi. Việc mở rộng sân bay về phía Nam (không nằm trong khu vực sân golf) là dựa trên việc tính toán kỹ lưỡng giữa các lợi ích và thiệt hại, không phải như những lời vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc là Nhà nước ta sợ đụng chạm đến lợi ích nhóm.
Như vậy, qua sự phân tích trên, có thể thấy rằng, những thông tin thất thiệt về dự án sân golf TSN trong thời gian qua là hành động xuyên tạc có chủ đích, nhằm bóp méo sự thật, lừa bịp, chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, gây mất niềm tin trong Nhân dân. Chúng ta cần tỉnh táo, biết chọn lọc thông tin để không bị lợi dụng làm con tốt chống phá chế độ, vi phạm pháp luật./. 

CẢNH GIÁC TRƯỚC CHIÊU BÀI DÙNG NHÂN DÂN LÀM “LÁ CHẮN SỐNG”

Gần đây, trong các hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhân dân làm “lá chắn sống” cho các hoạt động phi pháp của mình. Nghĩa là chúng sử dụng mọi thủ đoạn tinh vi để lừa bịp, lôi kéo, kích động nhằm núp bóng nhân dân để phục vụ cho mục đích chống phá của mình. Vậy thì, vì sao chúng lại lôi kéo được nhân dân?
Trước hết, các thế lực thù địch đã lợi dụng sự tò mò, hiếu kỳ của người dân. Đây vốn là bản tính của mỗi con người, trong đó có một số đông người Việt Nam chúng ta. Hễ ở đâu có việc gì xảy ra là chúng ta phải đi xem, phải hỏi để biết cho bằng được. Đây là một tính xấu, đã được các học giả thời trước chỉ ra, như nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn trong tác phẩm “Người xưa cảnh tỉnh” đã viết “Người Việt Nam nặng tính hiếu kỳ… a dua làm bậy, thị hiếu tầm thường, dễ tin nhảm, lòng tin sơ sài, biến thành mê muội. Lợi dụng điểm này, kẻ địch đã dựng nên những câu chuyện, sự kiện mang tính ly kỳ để lôi kéo người dân. Vì vậy, sự việc xảy ra, lúc đầu chỉ có một số ít người tham gia, sau đó tập trung đông lên, dẫn đến những lộn xộn, ầm ĩ, như vụ việc tụ tập, gây rối trên Quốc lộ 1A ngày 2 và 3 tháng 4 năm 2017 tại Kỳ Anh – Hà Tĩnh là một minh chứng.
Hai là, chúng đã lợi dụng tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng của người Việt Nam. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, tuy nhiên, điều đó lại hết sức nguy hiểm nếu bị địch lợi dụng, điển hình như vụ gây rối ở Mường Nhé – Điện Biên năm 2011. Trong thời gian từ ngày 30/4 - 6/5/2011, tại bản Huổi Khon, xã Nậm Kè (Mường Nhé, Điện Biên), Vàng A Ía đã cấu kết với Thào A Lù cầm đầu, tuyên truyền kêu gọi người Mông phải đoàn kết để đón “vua Mông”. Mù quán tin theo nên nhiều người bán hết tài sản, tập trung cầu nguyện, góp tiền cho tổ chức phản động để tập trung đông người, gây sức ép với chính quyền, đòi yêu sách cấp đất riêng để thành lập “Vương quốc Mông”. Hoặc chúng đã lợi dụng các sự kiện như Trung Quốc đưa trái phép dàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa Việt Nam năm 2014, vụ việc ô nhiễm biển miền Trung năm 2016 để lôi kéo người dân tụ tập, biểu tình gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội với các luận điệu rất mỵ dân như đoàn kết dân tộc chống xâm lược, đoàn kết đấu tranh vì đồng bào miền Trung ruột thịt…
Ba là, chúng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận nhân dân, với luận điệu “đi tù không phải dễ”. Phạm Đoan Trang, một đối tượng chống đối chính quyền, vi phạm pháp luật từng viết: “Các bạn biết không, một trong các lý do thúc đẩy một số blogger, trong đó có tôi, viết nhiều điều chỉ trích Đảng và Nhà nước cộng sản ở Việt Nam, là bởi vì chúng tôi mong muốn thấy độc giả bước ra khỏi nỗi sợ hãi. Chắc chắn là rất, rất nhiều, đại đa số dân Việt Nam, hiện vẫn nghĩ rằng: viết lách trên mạng, comment, like, share linh tinh trên mạng rồi có ngày đi tù. Nhưng các bạn thấy đấy, đã có nhiều blogger lên tiếng phản biện, chỉ trích Nhà nước về các chính sách công, thậm chí chửi thẳng vào chế độ, mà có… đi tù đâu? Nói một cách ngắn gọn là: Cái thời chỉ viết không thôi cũng đủ đi tù đã qua rồi. Đi tù không dễ đâu!”. Đó là những luận điệu và chiêu trò hết sức nguy hiểm, dễ khiến cho những người thiếu hiểu biết pháp luật ngộ nhận. Nhưng trên thực tế, những năm qua các lực lượng chức năng đã lần lượt bắt giữ và truy tố, xét xử hàng loạt đối tượng có hành vi gây rối trật tự công cộng và tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam được quy định tại khoản 1, điều 88 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Những bản án được tuyên đều xác đáng, nghiêm minh và nhận được sự đồng thuận của đông dảo người dân.
 Bốn là, đây là các hoạt động nằm trong một chuỗi các âm mưu, thủ đoạn có sắp xếp từ trước, có sự chỉ đạo của cả một bộ máy chuyên nghiệp từ bên ngoài như CIA, Việt Tân…Vụ Tây Nguyên năm 2001 và 2004, Mường Nhé – Điện Biên năm 2011 hay Hà Tĩnh 4/2017 đều có bàn tay sắp xếp của các thế lực phản động nước ngoài, đứng đầu là CIA (Mỹ), thông qua các tổ chức phản động người Việt ở hải ngoại như FULRO, Việt Tân…
Năm là, do sự yếu kém của một số cấp ủy, chính quyền sở tại. Công tác nắm tình hình, nắm địa bàn bị buông lỏng, các vụ việc ngay từ khi mới manh nha không được cấp ủy, chính quyền địa phương phát hiện kịp thời, nên khi xảy ra đã lúng túng, bị động trong xử trí, thậm chí tê liệt, không kiểm soát được tình hình (Như vụ Tây Nguyên, vụ Mường Nhé – Điện Biên).
Sáu là, kẻ địch đã đánh trúng tâm lý của nhân dân: bất mãn với một số vụ việc vi phạm chậm bị xử lý, mất niềm tin vào phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vụ việc kẻ xấu kích động nhân dân bắt giữ người trái  pháp luật ở thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội ngày 15/4/2017 là một ví dụ điển hình.
Thực tế, các vụ việc diễn ra đều đều có chung một kịch bản: kẻ địch lợi dụng các hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế, xã hội của một số cấp ủy, chính quyền, sự tha hóa phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả những vụ việc được ngụy tạo, dàn dựng để kêu gọi, tụ tập nhân dân đấu tranh đòi quyền lợi. Chúng sử dụng một số đối tượng cơ hội chính trị, đối tượng quá khích làm “chim mồi” (Bạch Hồng Quyền, Hoàng Đức Bình, Nguyễn Văn Hóa…) để châm ngòi, kích động nhân dân chống phá. Các hoạt động đó đều theo một kịch bản được xây dựng từ trước, do các tổ chức phản động chỉ đạo (CIA, Việt Tân,…).
          Để đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn thâm độc đó, phải tăng cường nắm chắc tình hình, quản lý chặt chẽ các đối tượng cơ hội, bất mãn, chống đối, phản động, không cho chúng có cơ hội ngóc đầu dậy hoạt động.
          Xây dựng hệ thống chính trị địa phương cơ sở vững mạnh, làm tốt việc tuyên truyền, vận động nhân dân không tụ tập gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đồng thời phải phân hóa, trấn áp bọn cầm đầu, xử trí các vụ việc phức tạp nảy sinh ở địa phương, cơ sở, không để kéo dài thành điểm nóng.
          Giải quyết triệt để, thấu đáo, có lý có tình các vụ việc tại địa phương, cơ sở, không để dư luận xấu, gây bức xúc trong nhân dân, không cho kẻ địch có cơ hội lợi dụng kích động, lôi kéo nhân dân.
          Đẩy mạnh tuyên truyền âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Trong điều kiện, hoàn cảnh mới hiện nay, âm mưu, thủ đoạn đó được chúng che đậy bằng những luận điểm, hành động hết sức tinh vi, xảo quyệt, thoạt nghe tưởng như không có gì là chống phá, nhưng thực chất là hàng loạt các hành động nhằm tiến tới lật đổ chế độ của chúng ta.

          Tóm lại, trong các vụ việc phức tạp xảy ra thời gian qua, các thế lực thù địch đã lợi dụng nhân dân làm bình phong, “lá chắn sống” cho các hoạt động gây rối, phá hoại, chống đối chính quyền của mình. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, cần phải bị lật tẩy và trừng trị. Mỗi một người dân chúng ta phải nâng cao cảnh giác, biết chọn lọc trong tiếp nhận thông tin, không để kẻ địch kích động, lôi kéo làm chuyện trái pháp luật, đồng thời hợp tác với cấp ủy, chính quyền để đấu tranh lật tẩy bộ mặt xấu xa của chúng./.

GÓP PHẦN BẢO VỆ VỮNG CHẮC ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG

Hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của công tác đối ngoại. Tuy nhiên, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta đang là một trong những đề tài chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Đây là âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc, phải bị lên án và đấu tranh.
Trước hết, phải khẳng định, đó là đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp hoàn cảnh cách mạng và thực tiễn đất nước, luôn có sự bổ sung và phát triển sáng tạo trong từng giai đoạn cách mạng. Đó là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đường lối đó hoàn toàn phù hợp với xu thế lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thông qua đường lối đối ngoại của mình, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên cùng với sự lớn mạnh của tiềm lực quốc gia dân tộc. Nếu như tại Đại hội VI, Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đến Đại hội VII, ta tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, Đại hội IX của Đảng năm 2001, trên cơ sở bổ sung, phát triển phương châm đối ngoại của Đại hội VII, khẳng định “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Và ngày nay, chúng ta ẫn khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Chính đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo đó đã góp phần rất quan trọng vào những thành tựu của 30 năm đổi mới đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù đang đẩy mạnh các hoạt động chống phá nhằm cô lập ta trên trường quốc tế, làm suy yếu tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các đài phát thanh thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, Châu Á tự do (RFA), Đài phát thanh quốc tế Pháp (RFI), các trang mạng xã hội… các thế lực thù địch đã và đang tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo sự thật về công cuộc đổi mới ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”, “không có tự do báo chí, tự do ngôn luận” nhằm hạ thấp uy tín, vị thế Việt Nam, tạo dư luận xấu trong nhân dân và bè bạn quốc tế. Chúng lợi dụng các tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức nhân quyền quốc tế, Liên minh Châu Âu, Diễn đàn hợp tác kinh tế Á – Âu… để gây áp lực, cô lập Việt Nam. Thậm chí chúng còn kêu gọi các nước phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)… chấm dứt đầu tư vào Việt Nam, ngừng các khoản viện trợ đầu tư phát triển cho Việt Nam. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục đích cô lập, làm suy yếu tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hướng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Đường lối đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ đường lối cách mạng của Đảng, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, bảo vệ đường lối của Đảng tất yếu phải bảo vệ đường lối đối ngoại, bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chính bản thân mình vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”, "Đảng không phải là nơi để thăng quan, tiến chức, để phát tài. Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, đảng viên phải trở thành người con hiếu thảo của Tổ quốc, của giai cấp". Mặc dù hiện nay, ở đâu đó vẫn còn những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, nhưng chúng ta  phải công nhận rằng đó chỉ là thiểu số, chỉ là “một bộ phận” như đánh giá của Đảng, là những “con sâu làm rầu nồi canh”, chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất của Đảng. Đảng ta vẫn xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII viết: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia –dân tộc… trên cơ sở vừa hợp tác vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phất triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân”. Vì vậy, chúng ta phải bảo vệ đường lối của Đảng nói chung cũng như đường lối đối ngoại của Đảng nói riêng.
Thực tiễn đã chứng minh đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là đúng đắn và hiệu quả, đã nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển, đưa các mối quan hệ đối ngoại quan trọng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 186/193 nước thành viên Liên Hợp Quốc, trong đó có năm nước trường trực Hội đồng Bảo an, thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với ba nước (Nga, Trung Quốc, Ấn Độ), đối tác chiến lược với 15 nước, đối tác toàn diện với 10 nước. Và vừa mới đây thôi, chúng ta đã lần thứ hai tổ chức thành công Tuần lễ cấp cao APEC, được nguyên thủ của các quốc gia thành viên cũng như các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao. Điều đó cho thấy sự năng động, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được coi trọng trên các diễn đàn quốc tế.
Các mối quan hệ đó đã mang lại nhiều lợi ích về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, phục vụ thiết thực cho mục tiêu duy trì hòa bình, ổn định, tái cơ cấu nền kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.  Công tác đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta ngày càng chủ động, tích cực hội nhập sâu và toàn diện hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiện nay, ta có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút trên 250 tỷ USD đầu tư nước ngoài (FDI), đã vận động được thêm 36 đối tác mới, nâng tổng số đối tác chính thức công nhận quy chế kinh tế thị trường ở nước ta lên 59. Những hoạt động kinh tế đối ngoại này đã đóng góp tích cực vào việc mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), thu hút khách du lịch, đấu tranh chống những hành động gian lận thương mại, áp đặt các rào cản thương mại làm tổn hại tới lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và Nhà nước ta.
Công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giữ vững chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công tác đối ngoại đã thực hiện nghiêm túc những chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sử dụng linh hoạt, triệt để các biện pháp chính trị - ngoại giao, mọi kênh đối thoại, tiếp xúc ở các cấp độ song phương và đa phương, khu vực và quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời chủ động tranh thủ mọi cơ hội để giảm căng thẳng, khôi phục lòng tin, thúc đẩy hợp tác hữu nghị. Công tác đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ pháp luật trong việc đẩy lùi và vô hiệu hóa các âm mưu và hành động chống phá Đảng và Nhà nước ta trong các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền’, “tôn giáo”. Nâng cao vị thế quốc tế của đất nước thông qua việc nâng tầm đối ngoại đa phương từ “tham gia tích cực” lên “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả các lợi ích chiến lược về an ninh, phát triển của Việt Nam, đồng thời thể hiện tinh thần “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Tóm lại, những thành tựu của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta là không thể phủ nhận. Đó là kết quả của việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi hành động xuyên tạc, phủ nhận thành tựu đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta đều là những luận điệu bịp bợm, mỵ dân của các thế lực thù địch và phản động. Những tiếng nói lạc lõng đó không thể làm lay chuyển hay tạo áp lực lên đường lối đối ngoại của Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn có một bộ phận người dân trong nước lại “hùa theo” những luận điệu vô căn cứ đó một cách mù quán, thiếu cơ sở và lệch lạc về thông tin theo cách thức mà ta thường gọi là “bị dắt mũi”. Những hành động đó phải bị lên án và lật tẩy, nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp đổi mới đất nước./.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Hiện nay hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không chỉ diễn ra trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa... mà nó còn diễn ra trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, với nhiều biểu hiện khác nhau, xong được nhận định như sau:
Biểu hiện thứ nhất là sự thiếu tin tưởng vào khả năng, sức mạnh quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Hiện nay trong xã hội có một số người cho rằng: sức mạnh quốc phòng, an ninh của nước ta có nhiều hạn chế, yếu kém, khó có khả năng bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nhất là việc bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo của ta. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, hành động vi phạm chủ quyền quốc gia trên biển thì trong tư tưởng và hành vi của những người này thể hiện sự bi quan, thiếu tin tưởng càng rõ rệt, thậm chí còn hoang mang, lo sợ. Những biểu hiện ấy dẫn đến sự lệch lạc trong nhận thức, nhìn nhận, xem xét, xử lý các vấn đề về quốc phòng, an ninh, làm ảnh hưởng tới sức chiến đấu của lực lượng vũ trang và đối sách của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
Biểu hiện thứ hai là mong muốn đổi mới quốc phòng, an ninh theo hướng dựa vào bên ngoài, xa rời nguyên tắc độc lập, tự chủ. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mức độ này thể hiện bằng việc hướng mạnh ra nước ngoài, muốn học tập và đi theo các nước lớn, để mong chờ sự giúp đỡ từ nước ngoài về quốc phòng, an ninh. Họ mong muốn nước ngoài giúp đỡ về vũ khí trang bị, đổi mới quân đội theo hướng quân đội nhà nghề. Trong nhận thức của những người này luôn tồn tại luồng tư tưởng “phải dựa vào một nước lớn nào đó thì mới giữ được độc lập, chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mức độ này nghĩa là đã ngả sang thế lực thù địch, đến giai đoạn tiếp tay cho các thế lực thù địch phá hoại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh.
Biểu hiện thứ ba là xuyên tạc, công kích, chống đối đường lối, chủ trương, chính sách quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nước ta. Đây là biểu hiện phản ánh rõ ràng tính trầm trọng và nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Những người và tổ chức “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mức độ này thường ra mặt công kích, chống đối dưới chiêu bài “phản biện” mọi chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và về quốc phòng, an ninh nói riêng. Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp luật, mọi hoạt động của lực lượng vũ trang... họ đều tìm cách để xuyên tạc, công kích. Mục đích cuối cùng của chiêu trò xuyên tạc là nhằm hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang, đi đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang. Biểu hiện ở mức độ này có nghĩa họ đã đứng hẳn về phía thế lực thù địch, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và nhân dân Việt Nam.

Hiện nay ở nước ta đã xuất hiện một bộ phận người này, họ thường lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân ta để ra sức công kích vào quan điểm, đường lối lãnh đạo, đối sách của Đảng về quốc phòng, an ninh. Thi thoảng họ lại tổ chức tụ tập, diễu hành, hòng kích động nhân dân, nhất là vào những dịp lễ tết, các dịp đất nước có sự kiện trọng đại, hoặc mỗi khi trên Biển Đông có những biến động phức tạp. Vì vậy chúng ta cần phải nhận rõ các biểu hiện, âm mưu, thủ đoạn của họ, để kiên quyết đấu tranh, phê phán và vô hiệu hoá ý đồ đen tối đó.

Nghiêm trị kẻ đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" chống phá Đảng, Nhà nước ta

Với những hoạt động "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Nguyễn Văn Đài cùng cộng sự Lê Thị Công Nhân đã vi phạm theo Điều 88, Bộ luật Hình sự, bị đưa ra xét xử và tuyên phạt Nguyễn Văn Đài 5 năm tù giam. Tưởng sau khi mãn hạn tù Nguyễn Văn Đài sẽ tỉnh ngộ, nhưng không, y vẫn “ngựa quen đường cũ”. Ngay sau khi ra tù, Nguyễn Văn Đài đã tập hợp một số phần tử bất mãn, cơ hội... lập ra cái gọi là “Hội anh em dân chủ”, những kẻ có tư tưởng, quan điểm sai trái, chuyên xuyên tạc, bịa đặt, kích động, cổ xúy cho những phần tử chống phá Đảng, Nhà nước, tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền...
Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đài và các đối tượng đã rất rõ ràng. Vậy tại sao vẫn có những tổ chức, cá nhân đội lốt “dân chủ", "nhân quyền” đứng ra bênh vực cho Nguyễn Văn Đài cùng đám tay chân?! Không khó để có câu trả lời.
Là dân tộc đã phải chịu nhiều đau thương, mất mát trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược, Việt Nam luôn khát khao hòa bình, ổn định để phát triển và mong muốn đóng góp cho nền hòa bình, phát triển bền vững của nhân loại. Thế nhưng bên cạnh đó vẫn còn một vài tổ chức, cá nhân vì những động cơ thấp hèn, âm mưu phá hoại Nhà nước Việt Nam, muốn làm cho Việt Nam mất ổn định chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam mất vai trò lãnh đạo; chế độ XHCN ở Việt Nam suy yếu đi đến sụp đổ. Để thực hiện mục tiêu ấy, họ không từ bất cứ thủ đoạn nào, đặc biệt là trò “ném đá giấu tay” ngấm ngầm tổ chức, nuôi dưỡng, xúi giục, kích động những phần tử cơ hội như Nguyễn Văn Đài. Nhờ sự hà hơi, tiếp sức của một số tổ chức phản động lưu vong, đội lốt "bảo vệ dân chủ, nhân quyền", Nguyễn Văn Đài không chỉ tuyên truyền phủ nhận những thành tựu về nhân quyền của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mà còn kêu gọi, kích động người dân tụ tập biểu tình, gây rối an ninh trật tự. Cũng do mờ mắt trước những đồng đô-la kiếm được từ một vài tổ chức, cá nhân ở nước ngoài mà Nguyễn Văn Đài và đám tay chân liên tiếp có những lời nói và hành động mưu toan chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đòi thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng... Chẳng lẽ Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn không thấy được một thực tế đang diễn biến ở không ít quốc gia theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là các đảng phái tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra những rối loạn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tại những quốc gia đó, chẳng những quyền dân chủ của người dân không được bảo đảm, mà tính mạng của họ cũng thường xuyên bị đe dọa... Với một người luôn rêu rao là am hiểu pháp luật như Nguyễn Văn Đài thì không thể nói là thiếu hiểu biết, không nhận thức được vấn đề đó.
Ấy vậy mà một vài cá nhân, tổ chức đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" vẫn cố tình cho rằng "Nguyễn Văn Đài vô tội". Họ vu cáo chính quyền Việt Nam khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt giam Nguyễn Văn Đài và đồng bọn là vi phạm nhân quyền. Vì theo họ, Nguyễn Văn Đài và đám tay chân chỉ “bày tỏ chính kiến một cách hòa bình”, chỉ là "thực hiện quyền tự do dân chủ"... Phải khẳng định rằng, ở Việt Nam, không có ai bị bắt giam do bày tỏ chính kiến một cách ôn hòa. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do của người dân, trong đó có quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận trong khuôn khổ luật pháp.
Luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do của công dân, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ nhân quyền, nhưng Việt Nam kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu và hành động đội lốt "dân chủ", "nhân quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, lợi dụng quyền tự do để chống phá Đảng và chính quyền nhân dân. Ở Việt Nam không có chỗ cho thứ “dân chủ”, “nhân quyền” coi thường kỷ cương phép nước. Vụ án “Nguyễn Văn Đài cùng đồng bọn hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” sẽ được các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra mở rộng theo đúng trình tự tố tụng của Việt Nam./. 

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

CHIẾN DỊCH PHÒNG KHÔNG THÁNG 12 -1972 VỚI HIỆP ĐỊNH PARIS VỀ VIỆT NAM

Trong chiến tranh, sẽ không thể giành thắng lợi trên bàn đàm phán nếu như không có thắng lợi trên chiến trường. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và đi vào đàm phán, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Bằng cuộc đấu tranh đầy bản lĩnh và trí tuệ, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, tháng 10/1972, văn bản Hiệp định Paris hình thành và được sự nhất trí giữa những đại diện tham gia đàm phán. Tuy nhiên, Mỹ đã lật lọng, không ký hiệp định theo dự kiến, mà còn tiến hành biện pháp chiến tranh ác liệt nhất: mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 nhằm huỷ diệt Thủ đô Hà Nội và thành phố cảng Hải Phòng, với tham vọng làm suy yếu miền Bắc, gây thêm những tội ác man rợ đối với nhân dân Việt Nam.
Với những toan tính và sự chuẩn bị từ trước, Tổng thống R. Nixon quyết định đánh con bài cuối cùng, mở cuộc tập kích chiến lược đường không (từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972) vào thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và một số nơi trên miền Bắc, với mật danh “Linebacker 2” bằng máy bay ném bom chiến lược B-52. Riêng Hà Nội, không quân Mỹ đánh có tính chất hủy diệt, trút hàng chục ngàn tấn bom xuống nhiều khu dân cư: Khâm Thiên, An Dương, Uy Nỗ, Bệnh viện Bạch Mai, Yên Viên, Gia Lâm, Đông Anh, Văn Điển, Giáp Bát, Đài Phát thanh Mễ Trì... Mỹ hy vọng sẽ buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải chấp nhận các yêu sách của Mỹ. Theo giáo sư sử học Mỹ Gorge C. Herring, quyết định của Nixon “có vẻ là buộc Hà Nội ký một thoả thuận” nhưng thực chất là “phản ánh nỗi tức giận và dồn nén trong suốt 4 năm và làm cho Bắc Việt Nam suy yếu đi đến mức họ không thể đe doạ Nam Việt Nam sau khi ký một giải pháp hoà bình”.
6 tuần sau khi tái thắng cử và một tuần trước lễ Giáng sinh năm 1972, Nixon lệnh cho những chiến máy bay B52 đầu tiên ra Hà Nội. Suốt kỳ nghỉ lễ Giáng sinh tiếp theo, Mỹ liên tục điều máy bay chiến lược B52 thực hiện những trận ném bom dữ dội và ác liệt nhất, trút hơn 36000 tấn bom xuống miền Bắc Việt Nam.
Song, một lần nữa, chính quyền Nícxơn lại nếm mùi thất bại.
Từ dự báo chiến lược: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội”... “Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân và các quân khu phải sẵn sàng đối phó với khả năng Mỹ cho không quân, kể cả không quân chiến lược đánh phá trở lại miền Bắc. Tháng 11-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Âm mưu của Mỹ cho B52 đánh thủ đô Hà Nội sẽ là hành động gây sức ép cuối cùng để buộc nhân dân Việt Nam phải nhân nhượng. Vì vậy phải kiên quyết đánh thắng chúng trên bầu trời Thủ đô... Với ý thức cảnh giác và tinh thần SSCĐ cao, quân dân miền Bắc, nhất là quân dân Thủ đô trong thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp chặt chẽ ba thứ quân, kết hợp các quân chủng và binh chủng, kiên quyết chiến đấu không chỉ bằng vũ khí hiện đại, mà bằng cả trí thông minh và lòng dũng cảm, làm nên “Trận Điện Biên Phủ trên không”, giáng cho quân xâm lược Mỹ những tổn thất nặng nề. Cho dù số “Pháo đài bay” B52 bị bắn rơi được mỗi bên công bố có khác nhau, nhưng chắc chắn đó là một tổn thất lớn về vật chất đối với Mỹ, đặc biệt gây tâm lý nặng nề cho giới quân sự Mỹ, bởi đây là chiến dịch mà Mỹ chủ động lựa chọn mục tiêu, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng vũ khí hiện đại nhưng hoàn toàn thất bại.
Trả lời tạp chí AirForce (6-1973), Cựu Phó Tham mưu trưởng không quân Mỹ khẳng định, "Bắc Việt Nam rõ ràng là có nhiều kinh nghiệm bắn tên lửa SAM cũng như các loại súng phòng không khác. Họ cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc phát hiện máy bay từ các đài điều khiển mặt đất... Không quân Mỹ đã tiến hành chiến tranh điện tử trên quy mô lớn, nhưng các máy bay vẫn dễ bị tổn thương. Chúng tôi cho rằng Bắc Việt Nam đã phát triển được các lực lượng phòng không dày dạn kinh nghiệm nhất thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất cứ nước nào trong việc phóng tên lửa để hạ máy bay".
Con bài cuối cùng đã rút ra và chẳng thể làm được gì hơn, gặp phải sự chống trả hiệu quả gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân chiến lược, lại bị cả thế giới lên án mạnh mẽ, uy tín của Chính phủ Hoa kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đối trong nước, bị cô lập trên trường quốc tế, lại không thể buộc đối phương thay đổi lập trường, ngày 30-12-1972, Nixon buộc phải ra lệnh chấm dứt cuộc tập kích “vốn đã mang nhiều hy vọng trước đó”, sẵn sàng cử đại diện trở lại bàn đàm phán. Ngày 8-1-1973, cuộc đàm phán ở Paris được nối lại. Các đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trở lại bàn đàm phán trên tư thế của người chiến thắng, trong niềm hân hoan của nhân dân yêu chuộng hoà bình toàn thế giới. Ngược lại, “nước Mỹ ở thế bất lợi nghiêm trọng trong cuộc tranh chấp với một đối thủ mạnh và quyết tâm trên vũ đài “vừa đánh vừa đàm”.

Với trận “Điện Biên Phủ trên không”, quân đội và nhân dân Việt Nam đã đập tan cố gắng cao nhất của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc Mỹ trở lại bàn đàm phán, chấp nhận ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam, rút quân viễn chinh khỏi miền Nam. Nhân dân Việt Nam hoàn thành căn bản nhiệm vụ “đánh cho Mỹ cút”, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. 45 năm đã trôi qua, nhưng những đám lửa đỏ của những pháo đài bay B52 bốc cháy trên bầu trời Hà Nội vẫn như đang in hình sâu dưới đáy nước Hồ Gươm.

CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ "LL47"

Hơn 10.000 người trong ‘Lực lượng 47’ đấu tranh trên mạng” – là tiêu đề được báo Tuổi trẻ giật tít cho bài phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa – phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam – tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018 tổ chức tại TP.HCM ngày 25-12 vừa qua. Ngay lập tức, bài viết đã được cộng đồng mạng chia sẻ rầm rộ, trong đó những người tự xưng là “nhà đấu tranh” hả hê tuyên bố rằng những người phản đối họ trên mạng là những thành viên thuộc “Lực lượng 47”, được trả lương để “định hướng dư luận”. Và như vậy, thông qua bài báo này thì kể từ bây giờ bất cứ cá nhân nào không có tư tưởng chống chính quyền hay có lời lẽ bênh vực chính quyền đều có thể bị quy chụp là thành viên “Lực lượng 47”. Vậy thực hư về lực lượng này là như thế nào ? Có giống như những gì báo Tuổi trẻ viết mà muốn người đọc nghĩ đến hay không !?!
“Lực lượng 47” là tên gọi dựa theo chỉ thị 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011 về những điều đảng viên không được làm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một trong các trách nhiệm của các cán bộ này là giám sát việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet TRONG QUÂN ĐỘI, quản lý báo chí, xuất bản, khai thác các ấn phẩm văn hóa, KHÔNG ĐỂ VĂN HÓA PHẨM XẤU ĐỘC XÂM NHẬP VÀO ĐƠN VỊ MÌNH.
Thành viên trong lực lượng 47 thường là Thủ trưởng các phòng Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật; các Chủ nhiệm Chính trị, báo cáo viên của các cơ quan, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang và cán bộ thuộc lực lượng cơ quan bộ, ban chỉ huy quân sự. Lực lượng này có chức năng giám sát, quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet TRONG QUÂN ĐỘI, quản lý báo chí, xuất bản, khai thác các ấn phẩm văn hóa, ngăn chặn các luồng thông tin độc hại xâm nhập vào các đơn vị trong quân đội
Như vậy đã rõ, Lực lượng 47 mà Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nhắc đến có nhiệm vụ bảo vệ an ninh thông tin TRONG QUÂN ĐỘI. Đây là một phần trong chiến lược tác chiến không gian mạng, nhằm đối phó với các nguy cơ an ninh phi truyền thống mà các chiến lược khác (trên không, trên biển, trên bộ,…) không thể đảm nhận được.
Quay trở lại với bài báo trên Tuoitre.vn khi trích dẫn lời của Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa. Bắt đầu trích “Quân ủy trung ương hết sức quan tâm, xây dựng lực lượng thường trực phản bác các quan điểm sai trái. Lực lượng bảo vệ an ninh tư tưởng trong quân đội cũng phát triển và tới đây sẽ có lực lượng chuyên trách làm nhiệm vụ tác chiến không gian mạng…..Có người hỏi tôi thông tin này có thể công khai không. Tôi thấy các thế lực và nước khác cũng đang tuyên bố là đang có cuộc chiến tranh trên không gian mạng thực sự. Nên chúng ta hàng giờ, hàng phút, hàng giây phải sẵn sàng chủ động tác chiến, đấu tranh với các quan điểm sai trái“- ngưng trích. Về cái gọi là Lực lượng 47, bài báo viết “Ông Nguyễn Trọng Nghĩa cho biết hiện lực lượng này (gọi là lực lượng 47 – theo chỉ thị 47) đã có hơn 10.000 người là hạt nhân đấu tranh trên không gian mạng, “vừa hồng vừa chuyên”, kiên định lập trường, có trình độ, kỹ năng sử dụng công nghệ cao thực hiện nhiệm vụ” – đây là cách diễn đạt lại lời của thượng tướng Nghĩa theo ý hiểu của phóng viên chứ không hoàn toàn là lời của thượng tướng – một cách lập lời, đánh tráo khái niệm.
Bài báo đưa tin về Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm 2017, có rất nhiều ý kiến của nhiều cá nhân được trích dẫn, tại sao lại lựa chọn ý kiến của thượng tướng Nghĩa để đặt tiêu đề và giật tít theo cách dễ khiến người đọc hiểu sai vấn đề. Tại sao không trích dẫn nguyên văn lời phát biểu của thượng tướng mà lại diễn đạt theo ý hiểu của phóng viên ? Phải chăng phóng viên Mai Hoa cố tình dắt mũi dư luận tới luận điểm “chính phủ trả lương 10.000 người thuộc “Lực lượng 47″ nhằm định hướng dư luận trên mạng xã hội”. Đọc những bình luận về chủ đề này trên mạng xã hội cho thấy tác giả đã dắt mũi dư luận rất thành công.

DÂN SỰ HÓA” - ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI

Hiện nay, trong cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” đang xuất hiện những tình tiết mới, rất nguy hiểm và thâm độc. Đó là âm mưu đòi “Dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Cụ thể, chúng ra sức tuyên truyền, cổ xúy cho luận điểm “Quân đội nhân dân Việt Nam là Quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, vì vậy Quân đội phải do nhân dân chỉ huy, Quân đội chỉ cần trung thành và bảo vệ lợi ích nhân dân là đủ. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, xảo quyệt, vì thoạt nghe thì rất có lý, nhưng lại nguy hiểm ở chổ đã tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Từ xưa đến nay, ở bất cứ quốc gia nào, Quân đội luôn là lực lượng chiến đấu để bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị và các Nhà nước, bất kể đó là Nhà nước phong kiến hay Nhà nước Tư bản hoặc Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, ý Đảng cũng là lòng dân. Để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn minh thì phải bảo vệ vững chắc đương lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bảo vệ Đảng, Nhà nước cũng chính là bảo vệ con đường đi lên xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân vậy.

“Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới” đã và sẽ mãi mãi là khẩu hiệu hành động của Đảng ta

Sau thành công Đại hội XII của Đảng, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng với những phương thức, thủ đoạn và giọng điệu khác nhau. Hiện nay, trước thềm bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, vẫn giọng điệu cũ, họ lại ra sức xuyên tạc cả những vấn đề thuộc về tôn chỉ, mục đích của Đảng.
          Họ cho rằng, khẩu hiệu nổi bật kết bằng hoa cúc vàng và hoa hồng thắm: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới” tại Đại hội XII của Đảng là những thứ của người ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vơ vào thành của mình(!). Đó là sự “cầm nhầm” - giống như kẻ gian lấy của người khác thì gọi là “cầm nhầm”.
Về đoàn kết, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam “là nhân tố chia rẽ và đối kháng dân tộc”(!). Như vậy, là họ cố tình lờ đi thực tiễn đất nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX, dân số chưa đến 30 triệu người, kinh tế rất lạc hậu, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đoàn kết muôn người như một (chỉ bằng sức người) làm nên Cách mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng có một không hai trong lịch sử dân tộc -  đã đánh đổ thực dân Pháp và phát xít Nhật, lập nên Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ đất nước.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, quyết tâm cao và niềm tin chiến thắng, chỉ với đôi vai và xe đạp thồ vận chuyển lương thực, thực phẩm của người Việt Nam mà đã chiến thắng phương tiện vận chuyển bằng cơ giới của thực dân Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Không có sự đoàn kết, sao người Việt Nam lại làm được điều đó?
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nếu không có sự đoàn kết thì làm sao khắp các chiến trường cả miền Nam và miền Bắc đều đồng lòng đánh Mỹ. Quân xâm lược đi đến đâu cũng gặp phải thiên la địa võng, khiến chúng không có đường đi và không nơi ẩn náu, chấp nhận thất bại. Phải chăng họ “quên” lịch sử dân tộc: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1] như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nếu không có đoàn kết, làm sao nhân dân Việt Nam lại giành được “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, nhân dân ghi nhận cuộc sống của mình được nâng lên không ngừng.
Về dân chủ, họ cho rằng: “Trên thế giới, không nước nào thực hiện kiểu “đảng chọn, dân bầu’’ mà có thể được coi là dân chủ”. Ngược dòng lịch sử dân tộc cho thấy, không có nước nào, đảng phái nào mang lại quyền con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam cả. Thực tế cho thấy, các thế lực xâm lược còn áp đặt chế độ thống trị trên cơ sở bảo tồn chế độ phong kiến thối nát, tàn bạo. Các quyền con người, quyền công dân chỉ đến với nhân dân Việt Nam qua cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Sau khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành lập hiến, lập pháp…, có đầy đủ các cơ quan của bộ máy nhà nước, bảo đảm Nhà nước Việt Nam sánh vai với các nước trên thế giới. Khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo duy trì hoạt động của Nhà nước mà mình đã lập nên để phục vụ nhân dân. Vì vậy, việc bầu ra đại biểu của bộ máy nhà nước cũng phải do Đảng lãnh đạo và các tổ chức, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể triển khai thực hiện theo Luật Bầu cử và nghị quyết của Thường vụ Quốc hội.
Trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của Việt Nam năm 2015 có quy định về Hội nghị Hiệp thương. Đây là hội nghị giữa các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội nghị Hiệp thương cùng với vai trò của Hội đồng bầu cử Quốc gia là cơ chế dân chủ quan trọng trong bầu cử Quốc hội, nhằm bảo đảm đúng tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu (bảo đảm đầy đủ các giai cấp, tầng lớp, thành phần dân tộc, giới tính, tôn giáo,… tham gia) và tạo ra sự đồng thuận xã hội. Nếu không có Hội nghị Hiệp thương thì không thể có một danh sách đề cử mang đầy đủ tính đại diện cho cơ quan quyền lực. Do đó, không thể bảo đảm quyền của người dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước. Thực tế cũng cho thấy, cử tri thường dựa vào kết quả hiệp thương để cân nhắc khi bỏ phiếu cho ứng cử viên nào. Vì vậy, qua 13 lần bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta, đa số ứng cử viên của Đảng đã trúng cử và khẳng định xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri. Điều này không có gì là bất thường cả! Bởi, ở các quốc gia theo chế độ đa đảng, cử tri bỏ phiếu cho các ứng cử viên của đảng mà họ lựa chọn.
Do đó, số đại biểu của các đảng chính trị trong nghị viện, quốc hội thường chiếm đa số. Sự trúng cử của số đại biểu tự do là rất ít. Ở Việt Nam cũng như những quốc gia theo chế độ một đảng lãnh đạo, đương nhiên, đại biểu quốc hội (nghị viện), đảng viên của đảng chiếm đa số. Vậy nên, cho rằng “đảng chọn, dân bầu” không có dân chủ là họ đã “quên” mất Hội nghị Hiệp thương và “quên” luôn cả các cách bầu cử của các quốc gia khác. Bởi thế, họ mới rêu rao lên rằng, ở Việt Nam không có dân chủ.
Về kỷ cương, họ cho là xã hội Việt Nam còn nhiều tệ nạn nên không thể gọi là kỷ cương. Đúng là, đất nước ta còn nhiều tệ nạn, nhưng tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Việt Nam có môi trường hòa bình đã và đang là nơi hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn ra thế giới cho thấy, các vụ khủng bố ở nơi này, nơi khác diễn ra liên tục. Năm ngoái là ở thủ đô Pa-ri của Pháp và vừa qua, là khủng bố ở thủ đô Bruc-xen của Bỉ - trái tim của châu Âu, ở Pakixtan, xa hơn nữa là các vụ khủng bố ở nước Mỹ,...  Vậy, nói ở Việt Nam có kỷ cương không đúng sao?
Về đổi mới, theo họ: “cũng là khái niệm “cầm nhầm” (!). Họ lý giải: “Đổi mới từ năm 1986 chỉ hé chút ít về kinh tế như cho tư nhân kinh doanh, cho một số công dân xuất ngoại, nhưng không hề có đổi mới gì về chính trị” (!). Có thật ở Việt Nam không có đổi mới về chính trị? Nhìn lại 30 năm đổi mới cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt một số kết quả quan trọng. Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện; hiệu lực, hiệu quả được nâng cao,...
Chúng ta cũng không phủ nhận đổi mới chính trị còn chậm hơn đổi mới kinh tế. Vấn đề này, Đảng ta đã nhìn thấy và Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) xác định: Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các quan hệ lớn; trong đó, có quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị”[2]. Điều này, được quán triệt ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[3], “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[4], “Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[5], “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,…”[6], .... Đây chẳng phải là những đổi mới về thể chế kinh tế và thể chế chính trị đó sao?
Cuối cùng, họ đòi hỏi: “Đổi mới duy nhất cấp bách và có giá trị là dân chủ hóa thật sự theo mô hình đa nguyên”. Vậy là, cái mặt nạ của họ đã bị tụt xuống. Đúng là “cái kim giấu mãi cũng lòi ra”. Cái mà họ đòi hỏi là đa nguyên, đa đảng - thứ mà nhân dân Việt Nam không có nhu cầu, vì không phù hợp với thể chế chính trị của nước ta.

Đúng là những luận điệu trên chỉ là sự xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng