Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Thông qua dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là cần thiết và phù hợp với công ước quốc tế

Tại Kỳ họp thứ hai, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIV đã chính thức thông qua dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (TNTG). Mục đích, ý nghĩa, tính nhân văn của việc làm ấy được thể hiện rất rõ ràng. Thế nhưng ngay sau đó, trên một vài trang mạng ở nước ngoài đã xuất hiện những luận điệu sai trái hòng xuyên tạc việc làm ấy của Quốc hội Việt Nam.
Họ nói rằng, “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật TNTG”. Họ còn xuyên tạc rằng: Dự án Luật TNTG mà Quốc hội Việt Nam thông qua “không nhằm phục vụ nhân quyền mà chỉ để phục vụ cho sự cai trị của Đảng Cộng sản...”. Những nhân vật đưa ra các luận điệu ấy chứng tỏ họ chẳng hiểu gì về tự do TNTG trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.            
Cần phải khẳng định rằng, tự do TNTG là một trong những quyền nhân thân cơ bản của con người. Điều này không chỉ được thể hiện rõ trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà còn được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật của các quốc gia.
Tại Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 16-12-1966 (Việt Nam tham gia công ước này ngày 24-9-1982), ghi rõ: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, TNTG. Quyền tự do này bao gồm tự do có theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ TNTG một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo; 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng; 3. Quyền tự do bày tỏ TNTG chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác”.
Ngay tại Mỹ-một đất nước luôn tự cho là “mẫu hình” về tự do tôn giáo, nhưng trong hệ thống luật pháp vẫn có các quy định để duy trì các tôn giáo hoạt động đúng nguyên tắc. Chẳng hạn, trong Hiến pháp Hoa Kỳ có quy định về việc tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước trong Tu Chánh Án thứ nhất, trong đó có nội dung: Nghiêm cấm việc thiết lập một tôn giáo nhà nước chính thức cũng như cấm chính phủ trợ giúp cho các nhóm tôn giáo... Tương tự ở Pháp, một nước được xem là đạt nhiều thành tựu về bảo đảm quyền tự do TNTG, nhưng đây cũng là quốc gia có hệ thống pháp luật khá đầy đủ và chi tiết về tự do TNTG. Đạo luật ngày 9-12-1905 của Pháp ghi rõ: “Nền Cộng hòa bảo đảm quyền tự do lương tâm, bảo đảm quyền tự do thực hành các việc thờ phụng với những hạn chế duy nhất được ban bố... vì lợi ích trật tự công cộng” (Điều 1). Để quản lý các hoạt động TNTG, Trung Quốc cũng ban hành nhiều văn bản luật. Chẳng hạn, Nghị định 145 ngày 31-1-1994 của chính phủ nước này quy định: “Các nơi hoạt động tôn giáo phải đăng ký theo thể thức do Cục Tôn giáo Quốc gia ấn định. Các nơi đó không thể do người nước ngoài điều khiển. Các nơi thờ tự không được nhận tiền bạc của các tổ chức và cá nhân từ nước ngoài gửi về. Tiền bạc do người nước ngoài tặng hoặc dâng cúng phải được tiếp nhận theo luật pháp quốc gia…”.    
 Như vậy có thể thấy, không chỉ ở Việt Nam mà các nước trên thế giới đều quan niệm không có tự do TNTG tuyệt đối. Để bảo đảm quyền tự do TNTG của người dân, các quốc gia trên thế giới đều ban hành trong hệ thống luật pháp của mình các điều luật cụ thể, hoàn toàn không có chuyện “ở các nước văn minh, người ta không bao giờ ra Luật TNTG” như giọng điệu mà các thế lực thù địch đang rêu rao. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tự do TNTG là một trong những quyền cơ bản của con người. Điều này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn lịch sử Việt Nam. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại Điều 10, Chương 2, nêu rõ: “Mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Sau đó, quyền tự do TNTG của người dân tiếp tục được Nhà nước Việt Nam tái khẳng định tại Điều 26, Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước đó, sau khi nước nhà thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã cho ra đời bản Hiến pháp năm 1980, trong đó tại Điều 80 cũng thể hiện: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Tiếp đó, tại Điều 70 của Hiến pháp năm 1992, Nhà nước Việt Nam một lần nữa khẳng định: “Công dân Việt Nam có quyền tự do TNTG, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các TNTG được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do TNTG hoặc lợi dụng TNTG để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Đúng như Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam,trong trả lời phỏng vấn báo chí về việc Quốc hội Việt Nam thông qua dự thảo Luật TNTG đã nhấn mạnh: “Đây là bước ngoặt lớn trong chính sách đối với TNTG ở Việt Nam mà Đảng, Nhà nước đang thực thi để hiện thực hóa Hiến pháp năm 2013. Luật TNTG này hơn hẳn các pháp lệnh, nghị định trước đây bảo đảm quyền con người, đáp ứng được nhu cầu bức thiết của TNTG ở Việt Nam trong thời kỳ mới, hội nhập quốc tế”. Một trong những mục đích chính của việc thông qua dự thảo Luật TNTG là nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người, đưa TNTG ở Việt Nam phù hợp với Công ước quốc tế và thực tiễn đất nước. Những ai cho rằng dự án Luật TNTG mà Quốc hội Việt Nam vừa thông qua “không nhằm phục vụ nhân quyền...” là một sự xuyên tạc trắng trợn, không thể chấp nhận được.

        Quang Hải

Thắng lợi của niềm tin

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp. Đây là dấu mốc quan trọng trên con đường đi tới “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của dân tộc Việt Nam. Đại hội khẳng định ý chí, quyết tâm và niềm tin của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với con đường đã chọn
Thành công của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tạo niềm vui to lớn đối với nhân dân ta. Bởi, Đại hội tiếp tục khẳng định đường lối đúng đắn, phù hợp để đưa đất nước tiếp tục phát triển. Thế nhưng, trái ngược với niềm vui của toàn dân tộc, các thế lực cơ hội, phản động vì những mưu toan hèn hạ chống phá Đảng, chống phá Đại hội không thực hiện được.
Trên các mạng xã hội, họ mở một chiến dịch rầm rộ “chưa từng có”, tấn công, chống phá Đảng Cộng sản Việt nam. Vốn biết niềm tin của nhân dân đối với Đảng là nhân tố vô cùng quan trọng bảo đảm cho cách mạng giành thắng lợi. Bởi vậy, chúng đã tiến hành nhiều thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc nhằm hạ thấp uy tín của Đảng và ý nghĩa Đại hội lần thứ XII của Đảng. Đặc biệt, họ tập trung công kích vào công tác nhân sự Đại hội Đảng; vu khống, bôi nhọ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, dựng chuyện về mâu thuẫn nội bộ, đấu đá, tranh giành quyền lực trong Đảng, v.v. Tất cả đều nhằm làm mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, trong chiến dịch chống phá đó, có một vấn đề họ luôn lẩn tránh, đó là thành quả công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 30 năm qua, nhất là trong 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XI. Vì sao họ không dám nhắc tới điều này? Bởi một lý do rất đơn giản vì đó là những thành quả to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, gắn liền với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà nhân dân hết sức tin tưởng và quyết tâm thực hiện. Không những nhân dân ta, mà bạn bè quốc tế đều ghi nhận những thành tựu đó và coi Việt Nam như một điểm sáng để các quốc gia đang phát triển nghiên cứu học tập, v.v.
Tiếp tục đường lối đổi mới đúng đắn đó, và trên cơ sở thực tiễn trong nước và tình hình thế giới, Đảng ta đề ra đường lối phát triển của đất nước cho 5 năm tới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII hàm chứa những nội dung mang tầm chiến lược về xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế mới, vì thế đã đáp ứng được kỳ vọng của toàn dân. Đảng ta đã phân tích sâu sắc tất cả các yếu tố tác động; đề ra mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cho mọi lĩnh vực của đất nước, với những tư tưởng, quan điểm đổi mới, đúng đắn, sáng tạo, mang tính đột phá cao.
Trải qua 86 năm lãnh đạo đất nước, Đảng ta đã có 12 kỳ Đại hội. Mỗi lần Đại hội Đảng diễn ra đều để lại những dấu ấn mạnh mẽ, sâu sắc trong tâm khảm người dân Việt Nam. Với chủ đề: “Đoàn kết – Dân chủ – Kỷ cương – Đổi mới”, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công hết sức tốt đẹp, thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, ý chí kiên cường và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Đại hội một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở. Điều đó đã mang lại niềm tin to lớn của nhân dân ta đối với Đảng và chế độ và là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường đổi mới đất nước.

Nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang

Âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang đã được các thế lực thù địch áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây. M. Gorbachev và những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
M.Gorbachev đã cố tình xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang, làm cho Quân đội và Công an bị “phi chính trị hoá” và bị vô hiệu hoá, từ đó mất phương hướng chính trị, mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc XHCN (mặc dù quân đội Liên Xô lúc bấy giờ vẫn còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại). Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự tan rã của Liên bang Xô viết.
Lực lượng vũ trang ra đời khi xã hội phân chia thành các giai cấp và xuất hiện Nhà nước, nó gắn liền và bị chi phối bởi tính chính trị của Nhà nước và giai cấp đã sinh ra nó. Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của giai cấp, mang bản chất giai cấp sâu sắc, là công cụ vũ trang chủ yếu của Nhà nước để bảo vệ chế độ, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội nhằm thực hiện quyền thống trị của giai cấp cầm quyền.
Do đó, vấn đề chính trị của lực lượng vũ trang luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu, liên quan đến bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu; thực chất là giải đáp câu hỏi lực lượng vũ trang do ai tổ chức, lãnh đạo; chiến đấu cho ai, vì ai?
Thực tiễn cách mạng Việt Nam chỉ rõ, bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp vô sản chính là xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội và Công an.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp; trong đó có những nguy cơ, thách thức trực tiếp đe dọa đến hoà bình, ổn định chính trị và phát triển của đất nước. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như khủng bố quốc tế, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ; những vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh…
Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc hơn nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đáng chú ý là, chúng triệt để lợi dụng quá trình hội nhập quốc tế và tác động mặt trái của cơ chế thị trường tập trung tấn công vào nội bộ, sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn để mua chuộc, lôi kéo, cài cắm người vào các cơ quan trọng yếu; ráo riết tiến hành các hoạt động nhằm “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nhân tố gây mất ổn định để chống phá ta.
Thời gian gần đây xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, quân đội phải là lực lượng trung lập với chính trị, quân đội đứng ngoài chính trị và không phụ thuộc vào chính trị. Cần khẳng định đây là quan điểm hết sức sai trái và phản động, vì xuất phát từ chính bản chất của quân đội là đội quân mang tính giai cấp sâu sắc, được lập ra nhằm mục đích bảo vệ chính quyền do giai cấp lập nên.
Trong lần về thăm Trường Chính trị trung cấp Quân đội (nay là Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng) ngày 25-10-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở các học viên: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, dân sự. Phải học tập chính trị: quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
QĐND ra đời từ các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, có nhiệm vụ chiến đấu giành và giữ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ XHCN và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước, chính vì vậy, bản thân nó đã là một lực lượng chính trị.
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam đã chứng minh: Quân đội là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối của Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
   
      Quang Đệ

Biểu hiện mới của "diễn biến hòa bình"

"Diễn biến hòa bình" đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng, an ninh, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình", bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, thì lại có người cho rằng “diễn biến hòa bình" là do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế”; rằng, chúng ta đã cố tình thêu dệt để hù dọa nhân dân, để che đậy khuyết điểm, Đây là một sự hồ đồ về chính trị của một số người hay là một thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch. Vì lẽ đó:
          Cần thấy rằng, khái niệm “diễn biến hòa bình" không phải là sự “sáng tạo” của những người cộng sản, cũng không phải là con "ngáo ộp" được thêu dệt nhằm hù dọa nhân dân, mà đó là một chiến lược, là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc và là mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam,“diễn biến hòa bình” là một nguy cơ, được các thế lực thù đich ráo riết đẩy mạnh và quyết liệt hơn với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
"Diễn biến hòa bình" đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, không phải là một con “ngáo ộp” do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế” như có những kẻ rắp tâm xuyên tạc và sự lệch lạc trong nhận thức và lập trường chính trị của một số người.
"Diễn biến hòa bình" có hay không? Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" hay không? Đó là do yêu cầu khách quan, xuất phát trực tiếp từ chính âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch chứ không phải do Đảng Cộng sản Việt Nam "cố tình vẽ ra". Không nên suy nghĩ một cách méo mó, xuyên tạc rằng không có "diễn biến hòa bình", để rồi lên mặt khuyên nhủ Đảng và nhân dân ta "không nên chống nữa", rằng chống "diễn biến hòa bình" là "vô duyên", là "vẽ việc ra để làm".
Kêu gọi không nên chống "diễn biến hòa bình" là một luận điệu đặc biệt nguy hiểm. Đây thực sự là sự "tiếp tay" cho việc thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; và đó cũng là một chiêu thức mới, một thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trong thực hiện "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta.
Âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam đến nay là nhất quán, nhưng đã có nhiều thay đổi, không còn giữ nguyên nghĩa như trước. Nó đã chuyển sang kết hợp thực hiện “diễn biến hòa bình" về tư tưởng, lý luận với “diễn biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực, với tiến công về chính trị, công kích trực tiếp, trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng kết hợp xuyên tạc lịch sử, lên án, phủ định sự nghiệp cách mạng và các cuộc kháng chiến chống xâm lược đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta, với việc phủ định những giá trị hiện tại, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, với việc làm lệch hướng tương lai phát triển của dân tộc. Những thủ đoạn tiến công đó được chúng kết hợp với việc sử dụng con bài pháp lý đòi Việt Nam phải thay đổi chế độ, chính sách, pháp luật quốc gia; gắn với những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, nhất là tình hình Biển Đông.
Chúng kết hợp đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” với việc khuyến khích, tạo điều kiện, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, pháp luật theo quan điểm dân chủ và giá trị phương Tây, đòi hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi tự do báo chí (ra báo, nhà xuất bản tư nhân…), tự do lập hội (đòi thành lập công đoàn độc lập), tự do hội họp, biểu tình, đòi xóa bỏ nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự liên quan đến lĩnh vực an ninh quốc gia..., cho thấy ngón đòn “diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được chúng thực thi rất ráo riết và đặc biệt nguy hiểm.
Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình” của nhân dân ta càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Tính phức tạp, khó khăn trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” biểu hiện ở chỗ, chúng ta khó phân định rạch ròi đâu là “diễn biến hòa bình”, đâu là những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta. Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính tổng hợp.
Chúng ta cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực thù địch, ngăn chặn đồng thời nhiều nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta trong hơn 70 năm qua.
Đảng và nhân dân ta vừa phải đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vừa phải ra sức khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hay nói cách khác, chống “diễn biến hòa bình” phải gắn chặt với đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 
Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính sống còn đối với chế độ xã hội và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của nước ta. Cuộc đấu tranh này dù có muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta chỉ có một sự lựa chọn, đó là: phải chiến thắng.
Muốn giành thắng lợi, trước hết chúng ta phải nỗ lực thực hiện tốt những vấn đề rất cơ bản:
Một là, giữ vững ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nâng cao khả năng "miễn dịch", sức đề kháng của cơ thể xã hội, của hệ thống chính trị, đặc biệt là của Đảng và cán bộ, đảng viên.
          Bốn là, thực hiện tốt vừa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, vừa kiên quyết ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, lấy ngăn chặn "tự diễn biến", gột rửa, loại trừ cái xấu đã lây lan làm chính. 
Năm là, thực hiện thật tốt nhiệm vụ “then chốt” xây dựng Đảng mà Đại hội XI và XII, đặc biệt Hội nghị TW4 khóa XI và TW4 khóa XII của Đảng đã xác định. Tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, nhất là xây dựng cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

“Diễn biến hòa bình” là sự thật và đặc biệt nguy hiểm, nhưng các thế lực thù địch có thể đạt được mục tiêu hay không, thì điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự khỏe mạnh, sự nỗ lực và quyết tâm của chúng ta. Như LêNin đã nói “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta” ./.

Công Chúc

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG ÂM MƯU PHI CHÍNH TRỊ HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

Gần đây có ý kiến cho rằng Quân đội là để bảo vệ nhân dân chứ không phải phục vụ cho Đảng và Nhà nước. Đây chính là biểu hiện rõ của các quan điểm thù địch, phần tử cơ hội chính trị và quan điểm sai trái, thực chất đó là mục tiêu tuyên truyền của các thế lực bên ngoài hòng làm phá hoại bản chất cách mạng của Quân đội ta.
Đầu tiên phải khẳng định rằng bất cứ quân đội nước nào cũng phục vụ nhiệm vụ chính trị và bị chính trị chi phối. Quân đội viễn chinh Hoa Kỳ bộc lộ bản chất đó ngay từ tên gọi "viễn chinh", đối tượng và môi trường tác chiến của họ thường là ở bên ngoài nước Mỹ nhưng vẫn nhằm phục vụ lợi ích cho Mỹ. Tưởng như việc tự do tham gia đảng phái hoặc không đảng phái nào là phi chính trị nhưng thực chất đó là cách chính trị hóa rất tinh vi bởi vì mục tiêu của họ vẫn không thay đổi. Quân đội của bất cứ nước nào cũng có bản chất giai cấp, phục vụ quyền lợi của giai cấp đó, chỉ có điều là quyền lợi của đảng đó, giai cấp đó có trùng với quyền lợi của dân tộc hay không thôi. Đối với QĐND VN, ngay từ khi thành lập các đội Cứu quốc quân, đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thì chủ trương của Đảng luôn lãnh đạo Quân đội tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt, Đảng tổ chức, xây dựng và giao cho Quân đội nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc nên quân đội chắc chắn phải do Đảng lãnh đạo chứ không ai khác. “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” xác định “Xây dựng Quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Quân đội nhân dân Việt Nam phải được xây dựng thành quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đó là 4 mặt tạo thành chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu toàn diện của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Đây là những quan điểm cách mạng và khoa học, vừa thấy rõ vai trò của từng nội dung, vừa thấy rõ quan hệ biện chứng tạo thành sức mạnh giữa các nội dung với nhau, vừa bảo đảm xây dựng toàn diện vừa có trọng điểm, không nhấn mạnh một chiều và cũng không xem nhẹ bất cứ một nội dung nào trong quá trình xây dựng Quân đội. Quan hệ hữu cơ của bốn nội dung trên trong xây dựng Quân đội là những vấn đề đã được kiểm chứng trong thực tiễn, là cội nguồn hình thành nên bản chất cách mạng và sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam: xây dựng bản chất cách mạng quân đội được xác định ngay từ những năm tháng đầu tiên hình thành " Tự vệ đỏ”, xây dựng chính quy về tổ chức biên chế, huấn luyện chiến đấu, trang bị và cấp dưỡng được hình thành ngay từ giai đoạn quân đội ta bước vào tác chiến quy mô cấp chiến dịch ( Thu Đông 1947) và được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm 1951 xác định; xây dựng quân đội tinh nhuệ và từng bước hiện đại được khái quát thành lý luận ngay trong những ngày đầu chiến tranh giải phóng. Thực hiện đúng chủ trương, đường lối này, Quân đội ta đã đi từ không đến có, không ngừng lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà sứ mệnh lịch sử giao cho trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Hiện nay, âm mưu và thủ đoạn chính trị trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực là "Phi chính trị hóa Quân đội" nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đối lập Quân đội với Ðảng và nhân dân, tiến tới vô hiệu hóa Quân đội và cao hơn nữa là sử dụng Quân đội vào mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Ðể nâng cao hiệu quả phòng, chống "phi chính trị hóa" trong Quân đội nhân dân Việt Nam, cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
          1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Ðảng đối với Quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong quân đội thực sự TSVM
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Quân đội là một nguyên tắc sống còn, là vấn đề then chốt nhất, để bảo đảm thực hiện thắng lợi nguyên tắc trên phải xây dựng Ðảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, thống nhất cao và có sức mạnh chiến đấu tổng hợp. Muốn vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; chống sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống, những biểu hiện lệch lạc về chính trị; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, hành động hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với Quân đội. Hơn lúc nào hết, Ðảng bộ Quân đội, các tổ chức đảng trong Quân đội phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo cho ngang tầm nhiệm vụ trước những biến đổi trong nước, khu vực và thế giới. Phải nâng cao trình độ, năng lực và hiệu quả lãnh đạo toàn diện, nhất là trình độ trí tuệ, trình độ lý luận..., nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Không ngừng chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.
          2. Tích cực nghiên cứu, tổng kết, phát triển lý luận, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” và "phi chính trị hóa"; tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị
Quân đội bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Không và không thể có Quân đội "phi giai cấp" hoặc "siêu giai cấp", Quân đội "phi chính trị" hoặc "đứng ngoài chính trị". Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh của quần chúng, được Ðảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo. Vì vậy, Quân đội không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Ðó cũng là mục tiêu chính trị của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội ta không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân mà còn mang đầy đủ tính nhân dân sâu sắc và dân tộc chân chính. Do đó, phải gắn chặt với việc nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho mọi tầng lớp nhân dân; nâng cao trách nhiệm trong việc tham gia tuyển chọn và cử công dân đủ tiêu chuẩn chính trị nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cấp ủy và chính quyền các địa phương cần quán triệt sâu sắc hơn cơ chế lãnh đạo của Ðảng, chức năng quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của mình, cùng chức năng của Quân đội để khi cần thiết huy động lực lượng Quân đội tham gia giải quyết các vấn đề nảy sinh trên địa bàn, phải tuân thủ quy định của Nhà nước và của Bộ Quốc phòng, tránh huy động, sử dụng tùy tiện, sai nguyên tắc, nhất là vào những công việc không đúng chức năng, dễ làm giảm uy tín  và sức mạnh của Quân đội. 
Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, về thực chất là xây dựng bản chất giai cấp công nhân, bản chất của Quân đội cho phù hợp sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ; lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Quân đội về chính trị là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc. Trong đó, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và phát triển đất nước phải được nhận thức và thực hiện nhất quán trong toàn quân; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước ngày càng được tăng cường; chất lượng tổng hợp, trình độ chính quy, sức mạnh và khả năng chiến đấu của Quân đội phải tiếp tục được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Xây dựng Quân đội về chính trị đòi hỏi sự nỗ lực, sự kiên định và bền bỉ rất cao của toàn Ðảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị và bản thân Quân đội. Chống âm mưu "phi chính trị hóa" Quân đội và tăng cường xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai mặt của quá trình xây dựng Quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Từ đó đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chính trị, tư tưởng và tổ chức, mà then chốt là xây dựng Ðảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, làm cơ sở cho Quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhà nước và nhân dân giao cho.
          3. Coi trọng xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở, chú trọng đơn vị; xây dựng đạo đức, nhân cách người quân nhân cách mạng
Môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong Quân đội trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển nhân cách của cán bộ, chiến sĩ một cách toàn diện; góp phần nâng cao trình độ trí tuệ, đạo đức, tình cảm, tâm hồn, thẩm mỹ, pháp luật, ý thức chính trị; là điều kiện hết sức thuận lợi để nuôi dưỡng, tô thắm thêm phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Môi trường văn hoá trong Quân đội còn là màng lọc để ngăn chặn những loại văn hoá độc hại xâm nhập vào quân đội; là hàng rào vô hình, phi vật chất, từng bước hạn chế và khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta hiện nay và để chiến lược “diễn biến hoà bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của kẻ thù không còn đất sống. Để làm được điều đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ thực hiện cuộc vận động xây dựng “môi trường văn hoá tốt đẹp, lành mạnh, phong phú” lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hoá, tinh thần của bộ đội, xây dựng ý chí quyết tâm cao vượt qua mọi khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
          4. Kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, vạch trần bản chất phản động chính trị, phản khoa học âm mưu chia cắt sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội
Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội hiện nay là: Đấu tranh bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng vạch trần bản chất phản động chính trị, phản động khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Những luận điệu về “quân đội trung lập”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn; là nhân danh “dân chủ hóa” để lừa bịp về chính trị; thực chất là từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta, hòng chuyển hóa lập trường chính trị, bản chất giai cấp công nhân của Quân đội. Quân đội ta không có mục tiêu chiến đấu nào khác là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc, no ấm cho nhân dân lao động và của cả dân tộc, đó cũng là mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội là thủ đoạn cực kì nham hiểm, thâm độc trong chiến lược “diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội mất phương hướng, phai nhạt mục tiêu lý tưởng chiến đấu, dẫn đến suy yếu về chính trị, bị “vô hiệu hóa”. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của kẻ thù là yêu cầu cấp bách của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ bộ mặt thật của kẻ thù, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng; tăng cường, củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; tiến hành làm tốt công tác giáo dục chính trị, quản lý tư tưởng, chấp hành kỷ luật và bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc, phản động như: Internet, đĩa hình, sách báo, các diễn đàn chính trị, văn hóa; chủ động đấu tranh vạch trần luận điệu phản động, phản khoa học của các thế lực thù địch. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nêu cao tinh thần, ý thức tự giác, xây dựng, củng cố niềm tin cách mạng; đẩy mạnh hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; chăm lo, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, tạo sức "đề kháng", "miễn dịch" cao cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước sự chống phá của các thế lực thù địch để Quân đội thực sự là "công cụ bạo lực sắc bén" bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xứng đáng với truyền thống: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.


Văn Ninh

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

DÂN CHỦ KHÔNG BIÊN GIỚI

Sự thật về lòng trung thành của những ai đó đã, đang tung ra luận thuyết “dân chủ không biên giới” và coi đó là chuẩn mực để thực hiện “chủ nghĩa can thiệp mới
Trong những năm gần đây chúng ta đã chứng kiếm một số thành công của mô hình “thúc đẩy xã hội nhân sự”. Lợi dụng quyền tự do lập hội để lập ra nhiều hội, nhóm không đúng quy định pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước của các cơ quan chức năng, thậm trí trá hình, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thử hỏi nếu họ là những cán bộ, đảng viên “trung thành” thì tại sao có ý kiến khác hoặc trái với đường lối, quan điểm của Đảng.
          Những việc làm trên có thể chứng minh rõ ràng họ tìm mọi phương cách nhằm kích động những phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta, tạo dựng phe cánh gây “điểm nóng” về xung đột, gây rối loạn tình hình chính trị xã hội và khi có điều kiện thì xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Việc can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thể hiện ở việc họ viện dẫn với màn kịch nhiều hồi, nhiều lớp với lý do chăm lo xây dựng nền dân chủ đem lại hạnh phúc cho người dân Việt Nam.
          Nhân dân Việt Nam đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh để tự bảo vệ mình, tự giải phóng mình nên càng thấu hiểu thế nào là tự do độc lập, thế nào là toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ vì vậy đương nhiên nhân dân Việt Nam sẽ biết nhìn nhận ai là bạn, ai là thù. Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý không ai có thể dùng ý muốn chủ quan để áp đặt. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo gần 30 năm đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế của đất nước ta ngày càng được nâng cao.
          Đất nước Việt Nam đã thay da, đổi thịt, dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thực sự khá giả song chính trị xã hội của đất nước luôn ổn định, cuộc sống thật sự hòa bình, tự do, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước./.

Văn Mạnh 

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI VẪN ĐANG CỔ VŨ, KHÍCH LỆ VÀ CHIẾU SÁNG MỤC TIÊU, CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở NƯỚC TA

Nhân kỷ niệm 99 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917/7-11-2016) và 75 năm Cuộc duyệt binh huyền thoại của Hồng quân Liên Xô (7-11-1941/7-11-2016) tại nước Nga và nhiều quốc gia trên thế giới diễn ra nhiều hoạt động kỷ niệm long trọng. Một lần nữa nhân dân yêu chuộng hòa bình và loài người tiến bộ trên thế giới đấu trang, bảo vệ trước các thế lực thù địch với CNXH và xuyên tạc ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga. Ðảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta ghi nhớ mãi mãi lời nói vô cùng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế".
         Ngay sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 các thế lực thù địch đã và đang chống phá quyết liệt, mưu toan phủ nhận mọi thành quả Cách mạng Tháng Mười và cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng vĩ đại, đó là Chủ nghĩa Mác- Lênin. Những âm mưu, thủ đoạn chống phá CNXH của các thế lực thù địch trong nhiều thập kỷ qua càng làm nổi bật tầm vóc, ý nghĩa và giá trị vạch thời đại của cuộc Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga vĩ đại.
         Cách mạng Tháng Mười đã làm rung chuyển thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại nó đã chứng tỏ mọi chế độ xã hội dựa trên nô dịch, bóc lột đều cần phải và có thể xóa bỏ, thiết lập một chế độ xã hội mới, một nhà nước kiểu mới của nhân dân lao động. Cách mạng Tháng Mười có sức động viên, cổ vũ lớn lao cho chế độ mới, động viên, cổ vũ lớn lao nhân dân lao động xây dựng chế độ mới đó. Nhân dân lao động bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, người làm dịch vụ, là lực lượng đông đảo trong dân cư, sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, lần đầu tiên đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Như thế, Cách mạng Tháng Mười không chỉ đóng khuôn tác dụng đối với nước Nga, dân tộc Nga, mà điều quan trọng hơn và sâu sắc hơn là mở ra cả một thời đại mới, thời đại của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tìm đường đem lại hạnh phúc cho nhân dân, theo đó nhanh hay chậm, trước hay sau dần dần sẽ tìm ra chân lý: đi lên chủ nghĩa xã hội. Ðúng là "Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người".(1)
         Có thể nói chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô do cuộc Cách mạng Tháng Mười mang lại, đã từng tỏ rõ những ưu việt của mình, tạo nên những quan hệ tốt đẹp giữa người với người, tạo nên bước tiến thần kỳ, chỉ trong thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc. Trong thực tiễn, chế độ xã hội tốt đẹp ở Liên Xô đã ảnh hưởng không nhỏ đến các trào lưu cách mạng trên thế giới. Và, một điều trớ trêu, khi có Liên Xô làm đối trọng, các nước đế quốc chủ nghĩa đã từng tiếp thu một số mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội để hòng khắc phục khiếm khuyết của chủ nghĩa tư bản, thực hiện thủ đoạn mị dân, nhằm duy trì và kéo dài chế độ tư bản chủ nghĩa.
         Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười càng lớn, thì giai cấp công nhân và nhân dân lao động càng nức lòng phấn khởi, tự hào, càng trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Mười. Trong khi đó, các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội càng ra sức xuyên tạc, bôi nhọ. Từ khi Liên Xô tan vỡ, những người có lợi ích đối lập với chủ nghĩa xã hội càng hí hửng, họ tung ra luận điệu "Cách mạng Tháng Mười là sự đẻ non, là sự sai lầm của lịch sử". Thật ra, ngay từ những năm 1917, 1918, ở nước Nga các học giả tư sản cùng những người "cơ hội hữu khuynh" cũng đã từng bài xích Cách mạng Tháng Mười, họ khuyên hãy làm cách mạng tư sản đã, hãy để cho chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển hết mức đã rồi hãy làm cách mạng vô sản! Bằng lý luận và thực tiễn sống động, V.I.Lê-nin đã chiến đấu sắc bén đập tan những luận điệu phi biện chứng lịch sử đó.
         Gần một thế kỷ đã trôi qua, Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa vô cùng sâu sắc về lý luận và thực tiễn, một mặt là sự trải nghiệm chủ nghĩa Mác, vận dụng chủ nghĩa Mác, mặt khác là sự phát triển chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo. C.Mác, trong những học thuyết của mình đã chỉ ra vai trò to lớn của chủ nghĩa tư bản phủ định chế độ phong kiến, phát triển lực lượng sản xuất nhân loại, đồng thời vạch ra những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản làm cho hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không phải là vĩnh cửu, trái lại đòi hỏi tất yếu ra đời và còn tạo những tiền đề cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Vì sống trong điều kiện chủ nghĩa tư bản còn đang ở giai đoạn phát triển cho nên C.Mác dự báo cách mạng vô sản phải nổ ra đồng đều ở hầu hết các nước "văn minh" thì mới có thể thắng lợi. V.I.Lê-nin sống trong thời điểm chủ nghĩa tư bản đã phát triển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc. Người đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới, chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc phát triển không đều về kinh tế và chính trị, từ đó cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra thắng lợi trước tiên ở khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Và, Tháng Mười (theo lịch Nga) năm 1917, một cuộc cách mạng vô sản đã diễn ra và thắng lợi ở nước Nga rộng lớn dưới ánh sáng của lý luận và thực tiễn đó.
           Như thế Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi là phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử, chứ tuyệt nhiên không phải là sản phẩm của một ý tưởng thuần túy, không phải là một "quái dị" của lịch sử. Có thể nói, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tự nó là một thành tựu lý luận và thực tiễn, vừa bảo vệ thành công lại vừa phát triển chủ nghĩa Mác, là một sản phẩm rực rỡ sáng ngời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế.
        Một thành quả cụ thể, trực tiếp của Cách mạng Tháng Mười Nga là chủ nghĩa xã hội với tính cách một chế độ xã hội mới được xây dựng ở Liên Xô. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ấy đã tồn tại gần ba phần tư thế kỷ 20. Nhân dân lao động thế giới chăm chú theo dõi với đầy tình cảm thân yêu, ra sức bảo vệ, tìm thấy ở đấy chỗ dựa đáng tin cậy và có hiệu quả trong cuộc đấu tranh của mình. Ngược lại, các thế lực đại diện cho "thế giới cũ" thì rất hằn học và họ tìm kiếm mọi thủ đoạn để thủ tiêu. Ngày nay, sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô không còn, đã trở thành biến cố lịch sử lớn lao nhất của thập niên cuối thế kỷ 20, làm cho nhân loại tiến bộ xót xa nhưng các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội lại vui mừng khôn xiết. Chính vì ảnh hưởng vô cùng lớn lao của cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại và thành quả của nó đối với thế giới, mà khi Liên Xô tan vỡ đã tác hại không nhỏ, từ đấy tình hình thế giới trở nên bất trắc, khó lường kéo dài.
          Không thể coi nguyên nhân tan vỡ Liên Xô là tại chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, chỉ có thể nói chính ở những thời điểm mà nguyên tắc xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, một đường lối sai lầm không nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội được thực hiện, nhân dân lao động Liên Xô thiếu tin tưởng ủng hộ, đã tạo thêm cơ hội cho những thế lực đen tối quay ngược bánh xe lịch sử. Phải bình tĩnh, tỉnh táo nhận xét rằng, nếu như Công xã Pa-ri năm 1871 chỉ tồn tại 72 ngày đã cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới bài học quý giá về khởi nghĩa giành chính quyền, về ý niệm sơ khai xã hội mới, thì Cách mạng Tháng Mười Nga với Nhà nước Xô-viết tồn tại 74 năm đã cho nhân loại tiến bộ bài học vô giá. Ðó là một chủ nghĩa xã hội hiện thực với những ưu điểm rất cơ bản của nó cần được giữ gìn, bảo vệ, phát huy, và cả một số khuyết điểm cần phải tránh, có thể tránh. Và, cũng phải bình tâm nhận thức rằng, Ðảng Cộng sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô đã lĩnh trách nhiệm đi tiên phong khai phá con đường mới, đột phá xây dựng một chế độ xã hội chưa từng có trong lịch sử, cho nên ưu khuyết, đúng sai, hay dở của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực là lẽ tự nhiên. Ðiều quan trọng là phải có một đường lối chính xác, biết phát huy cái đúng và sửa trúng cái sai. Tiếc rằng, những năm cuối cùng của thập kỷ 80 thế kỷ 20, một đường lối cải tổ sai lầm đưa Liên Xô đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cùng với những nguyên nhân quan trọng khác, đã dẫn Liên Xô đến chỗ tan rã, rút cuộc không bảo vệ và phát huy được thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
        Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cùng hoạt động cách mạng thực tiễn, đã là những yếu tố quyết định dẫn Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường đi đúng đắn của Cách mạng Việt Nam, góp phần rất quan trọng vào nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường mới, đó là: một dân tộc lạc hậu, khi điều kiện chín muồi, thì cách mạng vô sản có thể nổ ra, trước làm cách mạng giải phóng dân tộc, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên phải có sự lãnh đạo của Ðảng Mác-xít - Lê-nin-nít - chính đảng tiền phong của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười cùng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã dày công sáng lập nên Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và, ngay từ buổi đầu thành lập Ðảng, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra Chính cương vắn tắt, theo đó đã "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", (2) cũng tức là làm cách mạng dân tộc dân chủ rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội.
       Tiếp thu lý tưởng cách mạng của Cách mạng Tháng Mười cùng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ ngày ra đời đến nay, Ðảng ta luôn luôn xác định đường lối cơ bản: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Gần một thế kỷ qua, cách mạng nước ta diễn ra sôi động theo đúng quy luật tiến hóa của lịch sử, đem lại những biến đổi to lớn, đẹp đẽ, sâu sắc về đất nước, xã hội và con người.
       Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, và những luận điệu của những phần tử cơ hội hữu khuynh quốc tế, ở nước ta cũng có người nói "Cách mạng Tháng Mười là lỗi lầm bi thảm của lịch sử", và rằng "Cách mạng Tháng Mười có tiếp tục soi sáng con đường phát triển cách mạng của Việt nam và loài người hay không", ... Họ phủ định sạch trơn chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, phủ định sạch trơn ý nghĩa và giá trị của Cách mạng Tháng Mười. Những luận điệu đó chỉ là xuyên tạc thực tế, bôi nhọ lịch sử, phù hợp với ý đồ đen tối của các thế lực thù địch với con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta. Bằng cả lý trí và tình cảm, bằng cả tri thức và thực tế, chúng ta bác bỏ những luận điệu sai trái đó.
         Chúng ta phấn đấu theo lý tưởng và con đường mà Bác Hồ đã lựa chọn: con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Con đường chúng ta đang đi là phù hợp với thời đại hiện nay do cuộc đại Cách mạng Tháng Mười mở ra. Thấu suốt lý luận và thực tiễn, trước biến cố lịch sử của thế kỷ 20, ngay sau khi Liên Xô tan rã, Ðại hội IX của Ðảng tiếp tục khẳng định điều mà Cương lĩnh đã chỉ ra rằng, "Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử".

         Nhân dân yêu chuộng hòa bình và loài người tiến bộ trên thế giới đang chứng kiến công cuộc đổi mới ở nước ta - một công cuộc đổi mới có nguyên tắc: theo định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực và mọi lợi ích thuộc về nhân dân. Chủ nghĩa xã hội, Ðảng Mác-xít - Lê-nin-nít, nhân dân lao động làm chủ, nhà nước kiểu mới... đó là những lý tưởng, mục tiêu, nguyên tắc, thành quả mà cuộc Cách mạng Tháng Mười mở ra và tỏa sáng. (3) Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Mười, đang cổ vũ, khích lệ, chiếu sáng mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta./.

Quốc Đạt

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2016

VIỆC PHÂN ĐỊNH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG

Thời gian qua thông tin về vấn đề phân định biên giới trên biển và trên đất liền giữa Việt Nam với Trung Quốc luôn là chủ đề mà đám phản động khai thác triệt để nhằm xuyên tạc, gây hoang mang, chia rẽ và mất niềm tin. Cũng đã có nhiều bạn đăng bài nói về những vấn đề đó, song ít người được tiếp cận và thật sự buồn khi nhiều người có trách nhiệm trong ngành giáo dục, thông tin tuyên truyền, thậm chí cả trong LLVT cũng còn rất mơ hồ.
Nay xin tập hợp lại một số thông tin từ Ban Biên giới chính phủ, ông Trần Công Trục (Nguyên trưởng Ban BGCP) và Học giả Dương Danh Dy, cũng như thông tin từ khảo sát thực tế về vấn đề này để mọi người tham khảo thêm:
I. HIỆP ĐỊNH BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN
Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài trên 1.400 km tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung Quốc. Biên giới này được hoạch định và phân giới cắm mốc lần đầu tiên trong lịch sử bằng Công ước hoạch đinh biên giới ngày 20/6/1887 và Công ước bố sung ngày 20/6/1895 ký kết giữa Pháp và nhà Thanh (Trung Quốc).
Trong hơn 100 năm kể từ khi Công ước Pháp Thanh được ký kết, biên giới giữa hai nước đã trải qua nhiều biến đổi trên thực địa do thời tiết, do diến đổi địa hình địa vật và do những biến động chính trị, xã hội ở mỗi nước cũng như trong quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Vì vậy, đã nẩy sinh những tranh chấp hết sức phức tạp từ nhận thức khác nhau về hướng đi của biên giới cho đến lịch sử quản lý thực tế về biên giới… Chẳng hạn, lời văn mô tả và bản đồ có nơi không đầy đủ, chính xác, rõ ràng ; các cột mốc biên giới được căm từ cuối thế kỷ XIX không được xác định bằng lưới tọa độ, nhiều mốc bị hư hỏng, bị mất, xê dịch, nhiều mảnh bản đồ gốc không còn ; trên một số khu vực biên giới xẩy ra sự chuyển dịch dân cư không theo biên giới pháp lý…
Từ tình hình nói trên, nhằm xác định lại chính xác biên giới để quản lý biên giới lãnh thổ tốt hơn, tránh những tranh chấp phức tạp xẩy ra làm ảnh hưởng đến quan hệ chính trị giữa hai nước, ảnh hưởng đến môi trường hòa binh, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước…, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ tháng 11/1991, hai bên đã thỏa thuận tiến hành đàm phán hoạch định biên giới mới thay cho Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và tiến hành phân giới cắm mốc tại thực địa dựa trên nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới mới này. Quá trình đàm phán đã diễn ra như sau:
- Từ năm 1990, sau khi hai nước khôi phục quan hệ, từ 7/11/1991 đến 10/11/1991 đã ký hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới: quản lý biên giới theo tình hình thực tế; thẩm quyền giải quyết biên giới cấp Chính phủ; giữ mốc biên giới.
- Từ năm 1992: đàm phán lần thứ 4 diễn ra ngày 19/10/1993 ký thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước; trong thỏa thuận này, hai bên đã nhất trí mở ra 4 diễn đàn đàm phán về biên giới lãnh thổ (3 cấp chuyên viên và 1 cấp Chinh phủ) và đặc biệt đã thống nhất được căn cứ pháp lý để đàm phán là : “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và Trung Quốc ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới 20/6/1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định, cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định; đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa VN và Trung Quốc…”.
(Ta đã đấu tranh buộc Trung Quốc phải chấp nhận lấy Công ước Pháp - Thanh làm cơ sở. Trong khi với tất cả các quốc gia láng giềng khác, họ tuyệt đối không chấp nhận các Hiệp ước, công ước tương tự vì nhiều điều khoản "thiệt cho Trung Quốc" do sự yếu kém của nhà Thanh).
- Như vậy, mọi tư liệu lịch sử, bản đồ, sách giáo khoa, thậm chí cả các tài liệu chính thức đã xuất bản trước thời điểm này, nếu không được xác nhận là một bộ phận của Công ước nói trên, đều không có giá trị dùng làm căn cứ để xác định hướng đi của đường biên giới trong quá trình đàm phán lần này.
- Thực hiên Thỏa thuận nói tên, từ tháng 2/1994 đến tháng 12/1999, hai bên đã họp 6 vòng cấp Chính phủ, 16 vòng nhóm công tác liên hợp, 3 vòng nhóm soạn thảo Hiệp ước.
- Tại vòng 2 (tháng 7/1994) nhóm công tác đã trao bản đồ chủ trương, qua đối chiếu có 870 km/1360 km đường biên giới trùng nhau (67%), 436 km/1360 km, 289 khu vực không trùng nhau với tổng diện tích 236,1 km2 trong đó có 74 khu vực loại A (1,87 km2) kỹ thuật vẽ chồng lấn nhau, 51 khu vực loại B(3,062 km2) không vẽ tới, 164 khu vực loại C do quan điểm hai bên khác nhau, trong đó có một số khu vực tranh chấp trên thực địa.
- Đàm phán cấp Chính phủ vòng 6 (25-28/9/1998) thống nhất phân khu vực C thành 3 loại: khu vực Công ước đã quy định rõ ràng, khu vực một bên quản lý quá hoặc vạch quá đường biên giới, khu vực Công ước không qui định rõ ràng để xử lý theo nguyên tắc đã thỏa thuận, chẳng hạn:
1. Nguyên tắc các bên trao đổi vô điều kiện cho nhau những vùng đất quản lý quá đường biên giới: “Sau khi hai bên đối chiếu xác định lại đường biên giới, phàm những vùng do bất kỳ bên nào quản lý quá đường biên giới về nguyên tắc cần trả lại cho bên kia không điều kiện” (Phần II, điểm 3, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa, ngày 19/10/1993).
Trong quá trình phân giới cắm mốc, đối với một số khu vực nhạy cảm do có sự tồn tại của dân cư vượt qua biên giới pháp lý mới được hoạch định thì hai bên thỏa thuận thực hiện nguyên tắc giảm tối đa tác động đến khu dân cư, điều chỉnh biên giới sao cho cân bằng về diện tích, giữ nguyên hiện trạng khu dân cư, như nhà cửa, ruộng vườn, nghĩa trang mồ mả…Thực hiện nguyên tắc này, hai bên đã thỏa thuận xử lý thỏa đáng các khu vực có dân cư sinh sống ; chẳng hạn: 4 khu vực loại C diện tích khoảng 7,2 km2 có dân cư Việt Nam sinh sống quá đường biên giới pháp lý mới về phía Trung Quốc vẫn được giữ nguyên; 5 khu vực loại C với diện tích khoảng 5,7 km2 dân Trung Quốc ở quá đường biên giới pháp lý về phía Việt Nam cũng được giữ nguyên hiện trạng.
Đối với khu vực điểm cao có chốt quân sự, thì các điểm cao nằm trong lãnh thổ của nước nào thì thuộc nước đó. Đối với các điểm cao nằm ngay trên đường biên thì không bên nào được phép đóng quân, không được xây dựng bất kỳ công trình quân sự nào trên đó, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Nguyên tắc giải quyết đường biên giới trên sông suối : “Đối với những đoạn biên giới đi theo sông, suối, hai bên đồng ý sẽ tính đến mọi tình hình và tham khảo tập quán quốc tế, thông qua thương lượng hữu nghị để giải quyết” (Phần II, điểm 4, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới Việt - Trung 19 tháng 10 năm 1993). Tại vòng 5 đàm phán cấp Chính phủ, hai bên đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giai quyết đường biên giới trên sông suối giữa hai nước: Đối với những đoạn biên giới đã được Công ước 1887, 1895 xác định rõ ràng thì căn cứ vào các quy định của Công ước để xác định biên giới, cũng như sự quy thuộc các cồn bãi trên sông suối biên giới; đối với những đoạn biên giới theo sông suối chưa được Công ước xác định rõ ràng thì hai bên sẽ áp dụng nguyên tắc phô biến của Luật pháp và Tập quán quốc tế để xác định:
+ Trên các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm luồng chính tàu thuyền chạy.
+ Trên các đoạn sông suối tàu thuyền không đi lại được đường biên giới sẽ đi theo trung tâm của dòng chảy hoặc dòng chính.
(Bà con có thể liên hệ với thác Bản Giốc nha, bởi nhiều người vẫn..đòi hết của người ta thành của mình)
- Hiệp ước hoạch định biên giới được hai nước Việt Nam, Trung Quốc chính thức ký ngày 30/12/1999 và được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 6/6/2000 và Quốc hội Trung Quốc phê chuẩn ngày 29/4/2000. Hiêp ước này mô tả hướng đi của đường biên giới bằng lời văn và thể hiện bằng đường màu đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1/500.000. Dựa vào Hiệp ước này, từ tháng 12/2001, hai bên đã tiên hành phân giới, cắm mốc.
- Đến ngày 31/12/2008, công tác phân giới cắm mốc đã cơ bản hoàn thành. Kết quả là : Chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566 km, trong đó có 383, 914 km đường biên giới đi theo sông suối ; cắm được 1971 cột mốc (so với trước chỉ có hơn 300 cột mốc nên rất khó quản lý. Biên giới Việt - Lào dài gần gấp đôi nhưng chỉ có số cột mốc bằng phân nửa), trong đó có 1628 cột mốc đơn, 232 mốc đôi cùng số và 111 mốc ba cùng số.
Phải đến năm 2010, việc cắm mốc trên thực địa mới được hoàn thành, có một số điều chỉnh vì thực tế khác với tài liệu miêu tả. Kết quả là trên thực địa Việt Nam được khoảng 55%, Trung Quốc được 45% ở những vùng có tranh chấp trước đó.
II. VIỆC PHÂN ĐỊNH KHU VỰC THÁC BẢN GIỐC VÀ ĐIỂM CAO 1509, VỊ XUYÊN - HÀ GIANG:
Khu vực thác Bản Giốc là nơi phức tạp nhất trong đàm phán phân định. Tính tổng thời gian mất tới 15 năm đàm phán cho khu vực này, có nhiều tuần 2 bên chỉ ngồi "thi gan", đấu trí qua ánh mắt chứ không hề phát biểu. Kết quả giải quyết cuối cùng: Việt Nam được toàn bộ phần thác phụ và 1/2 thác chính (lẽ ra chỉ được 1/3 vì dòng chảy sâu nhất nằm về phía Việt Nam), khu vực hạ lưu thác 2 bên cung khai thác chung. (Các bạn xem thêm nguyên tắc 2 ở mục I để hiểu thêm)
Khu vực Núi Đất, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn theo thông tin không chính thức từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng sau các trận chiến ở thập kỷ 80, Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm.
Việt Nam đã đồng ý điều chỉnh chút ít hướng đi của đường biên giới ở khu vực có nghĩa trang do Trung Quốc đã xây dựng trước đây, mặc dù về pháp lý đường biên giới mà hai bên đã xác định là phải đi qua khu vực nghĩa trang này.
Đây là quyết định mang tính nhân đạo, thỏa đáng, phù hợp tập quán văn hoá 2 nước.
III. PHÂN ĐỊNH VỊNH BẮC BỘ:
Theo Hiệp định Pháp - Thanh:
“Các đảo phía đông kinh tuyến Paris 105 °43, kinh độ đông, tức là đường bắc-nam đi qua điểm cực đông của đảo Tch'a Kou hay Ouan-chan (Trà Cổ) và làm thành biên giới cũng được cho là của Trung Hoa. Các đảo Go- tho và các đảo khác phía tây kinh tuyến này thuộc về An Nam.
Những người Trung Hoa phạm pháp hoặc bị cáo buộc phạm pháp tìm nơi trú ẩn tại các đảo này, sẽ được, theo quy định của điều 27 của Hiệp định ngày 25/4/1886, tìm kiếm, bắt giữ và dẫn độ bởi Chính quyền Pháp.”
Như vậy, vào năm 1887, trong Vịnh Bắc Bộ, Pháp không cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển cách bờ hơn 12 hải lý. Cũng không có chứng cớ là vào thời điểm đó Trung Quốc cho rằng họ có chủ quyền hay quyền chủ quyền trong vùng biển này. Do công ước Pháp-Thanh chưa phân định phần lớn Vịnh Bắc Bộ, việc phân định Vịnh Bác Bộ là cần thiết.
Việt Nam đã đề nghị từ bỏ chủ trương khẳng định rằng trong vịnh đã có biên giới theo Công ước Pháp Thanh 1887. Thay vào đó, khi đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, sẽ theo nguyên tắc của Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Đó là nguyên tắc thỏa thuận, có tính đến mọi hoàn cảnh liên quan, để phân định vịnh Bắc Bộ đảm bảo tính công bằng mà hai bên có thể chấp nhận được.
Kết quả là Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết vào ngày 25/12/2000. Hiệp định này gồm 11 điều với nội dung chủ yếu là xác định rõ tọa độ địa lý của 21 điểm trên đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế, vùng thềm lục địa giữa hai nước; quy định hai bên tôn trọng chu quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên tại các vùng biển trong vịnh Bắc Bộ; quy định việc thăm dò khai thác tài nguyên thiên nhiên nằm vắt ngang đường phân định và giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệp định thông qua đàm phán thương lượng. Hiệp định có hiệu lực ngày 15/6/2004.
Trong phần lớn vùng biển hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ, bờ biển Việt Nam và Trung Quốc đối diện nhau. Vì vậy, theo luật quốc tế thì đường trung tuyến có điều chỉnh là nguyên tắc phân định công bằng nhất.
Và vì vậy, kết quả phân định như sau: Tỷ lệ diện tích Việt Nam/Trung Quốc đạt được, 1,135/1, gần tương đương tỷ lệ chiều dài bờ biển Việt Nam, Trung Quốc là 1,1/1. Cho nên, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ đã được phân định phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế, hợp tình hợp lý vì nó đảm bảo được sự công bằng mà hai bên chấp nhận được.

Hiện nay, 2 bên đang tiếp tục chuẩn bị, Tổ chức các cuộc gặp để có thể phân định tiếp các khu vực có sự chồng lấn ngoài cửa vịnh Bắc Bộ

Quách Định

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2016

“Nên chăng” bỏ biển báo “Đèn vàng”!!!

           Bước sang tháng 11/2016, nhiều quy định mới có tác động trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống người dân, trong đó có quy định tăng mức xử phạt tiền đối với hành vi vượt đèn vàng khi tham gia giao thông đường bộ lên đến 400.000 đồng. Thực chất hành vi vượt đèn vàng đã được pháp luật nghiêm cấm, tuy nhiên hình thức xử phạt đối với hành vi này còn nhẹ, do vậy chưa thật sự tác động làm chuyển biến ý thức của người tham gia giao thông.
         Lợi dụng các quy định mới này, nhiều đối tượng xấu đã có ý định kích động người dân chống đối gây ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan chức năng thực thi pháp luật về giao thông đường bộ, nhất là việc kích động đòi xóa bỏ “đèn vàng” trong hệ thống đèn báo giao thông.
Do vậy, các cơ quan chức năng, nhất là các tổ chức quần chúng ở địa phương phải tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về các quy định mới, cụ thể là quy định mức xử phạt tiền mới đối với hành vi vượt đèn vàng. Trong đó, tập trung giải thích rõ tại sao đèn tín hiệu phải có ba màu: đỏ, vàng, xanh; công dụng của từng loại đèn báo; tác hại của hành vi vượt đèn vàng… Từ đó góp phần nâng cao nhận thức người dân; không để kẻ xấu lợi dụng kích động gây nên những phản ứng làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.

Hữu Cường

Nhiệm vụ cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hóa hiện nay

Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp cho đến hiện nay thì đấu tranh tư tưởng, lý luận luôn là mặt trận quan trọng hàng đầu.Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu có nguyên nhân từ chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Để xây dựng Đảng ta trong sạch vững mạnh, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên phải gắn chặt với cuộc đấu tranh đánh bại các hoạt động chống phá ta trên mặt trận tư tưởng, lý luận, văn hoá của các thế lực thù địch.
Do vậy, chiến thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, văn hoá hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nhận diện trúng, đúng từ âm mưu chiến lược, mục đích, nội dung, lực lượng, thủ đoạn chống phá ta trên mặt trận quan trọng hàng đầu này. Thực tiễn trong những năm qua các thế lực thù địch đang tăng cường sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, bằng nhiều con đường với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chống phá ta trên các hướng chủ yếu sau:
- Tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam. Họ tung ra hàng loạt các quan điểm sai trái nhằm phê phán, phủ định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như phê phán  học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin như Học thuyết về Hình thái kinh tế – chính trị, Học thuyết Giá trị thặng dư, Lý luận về chủ nghĩa xã hội và Lý luận về thời đại và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trong thời gian gần đây họ tập trung xuyên tạc vu cáo “hạ bệ thần tượng” đối với lãnh tụ của Đảng và của dân tộc ta.
- Xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, phủ nhận những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cường điệu những yếu kém, khuyết điểm của nền kinh tế - xã hội, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, đàn áp tôn giáo, kỳ thị phân biệt đối với các dân tộc thiểu số, quy kết mọi yếu kém khuyết điểm này cho sự lãnh đạo của Đảng để đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi hình thành các Đảng chính trị, các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản.
- Xuyên tạc lịch sử dân tộc, nhất là lịch sử các cuộc kháng chiến, các cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Đáng chú ý bằng các thủ đoạn tung tin, dựng chuyện đổi trắng thay đen để hòng biến cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược thành cuộc nội chiến, biến những kẻ bán nước “cõng rắn cắn gà nhà” thành người yêu nước!!
- Tuyên truyền xuyên tạc đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối bảo vệ Tổ quốc và đường lối đối ngoại của Đảng ta.
- Tăng cường truyền đạo trái phép nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số để nắm quần chúng và kích động ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết kết dân tộc .
-  Đẩy mạnh các hành động “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá” để áp đặt các giá trị văn hoá và lối sống của nước ngoài, phá hoại bản sắc văn hoá của dân tộc. Đáng chú ý, thông qua mạng internet, thông qua các kênh chiếu phim, các chương trình ca nhạc, vui chơi giải trí, hệ thống xuất bản phát hành để truyền bá lối sống ích kỷ vụ lợi, xa hoa, truỵ lạc, bạo lực.
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu, sự lây lan ghê gớm của các cuộc “cách mạng màu” ở Trung Đông càng kích thích các thế lực thù địch tăng cường đầu tư tiền bạc, lực lượng phương tiện cho các cuộc tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận, văn hoá. Họ đã công khai tuyên bố: Đầu tư 1 USD cho mặt trận này hiệu quả hơn đầu tư 10 USD cho quân sự! và “Đánh thắng chủ nghĩa cộng sản không bằng chiến tranh”!!
Để thực hiện âm mưu, ý đồ trên, các thế lực thù địch đã xây dựng và sử dụng tổng hợp các lực lượng, các phương tiện, các thủ đoạn cho chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Về lực lượng: Họ tăng nhanh số lượng chuyên gia tư tưởng, chuyên gia tâm lý chiến” tập trung cho nhiệm vụ chống phá ta trên lĩnh vực này, đáng chú ý, họ còn tăng cường lôi kéo, mua chuộc, khống chế và lợi dụng một số cán bộ, đảng viên, trí thức, chức sắc tôn giáo, sinh viên của ta.
Về tổ chức: Trên cơ sở tăng cường phối hợp các tổ chức phản động ở các nước chống phá ta trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền dân tộc tôn giáo, họ đẩy mạnh việc mua chuộc, lôi kéo, tranh thủ, lợi dụng một số cán bộ chuyên gia trong một số cơ quan, tổ chức của ta trên lĩnh vực tư tưởng lý luận văn hoá (nhà xuất bản, ban biên tập báo, phát hành sách, phát thanh truyền hình, phim…)
Về phương tiện: Khai thác triệt để mạng internet, các phương tiện truyền thông, công nghệ tin học để chuyển tải các quan điểm sai trái, các ấn phẩm văn hoá độc hại.
Về thủ đoạn: Triệt để lợi dụng các hoạt động đầu tư, hợp tác kinh tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, thông qua các chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học, các chương trình nhân đạo đáng chú ý họ lợi dụng các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực luật pháp, nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn. Trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch trên cơ sở tăng cường sử dụng tổng hợp triệt để các thủ đoạn: Lợi dụng các ngày kỷ niệm các sự kiện lịch sử để tuyên truyền xuyên tạc lịch sử; Lợi dụng việc toàn dân góp ý bổ sung sửa đổi Hiến pháp 2013 để tuyên truyền phủ định những vấn đề cơ bản cốt lõi trong Hiến pháp của ta. Họ sử dụng triệt để thủ đoạn biên tập, biên dịch và phát hành một số sách văn học nghệ thuật, khoa học xã hội có quan điểm sai trái. Họ khai thác triệt để hình thức các sách hồi ký và phỏng vấn các nhân chứng, các nhân vật cơ hội chính trị…
Nhận diện và đánh giá các thủ đoạn phương tiện và hậu quả của các hành động “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá” đối với Việt Nam, tiến sĩ kinh tế Nga Vơlađimia Mazyrin đã viết bài “Phương tây đe doạ sự ổn định của xã hội Việt Nam”. Đài phát thanh Tiếng nói nước Nga đã phát bài này ngày 14/3/2013. Trong bài này, V.Mazyrin có một số nhận định đáng chú ý: “Nền văn minh và phong cách sống phương tây ngày càng ảnh hưởng đến thanh niên Việt Nam, đe doạ, phá huỷ sự ổn định của xã hội Việt Nam”; “Những giá trị phương tây và văn hoá của họ đã thâm nhập vào xã hội Việt Nam thông qua phương tiện truyền thông, internet, cũng như công nghệ thông tin và giao tiếp hiện đại. Điều này đặc biệt nhạy cảm với giới trẻ ngày nay. Những ảnh hưởng tác động này đã tăng đáng kể trong vòng vài năm qua”; “Văn hoá phương tây ngày nay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam… giới trẻ Việt Nam đang đánh mất hứng thú trong việc tích cực học tập và lao động. Đã xuất hiện việc coi thường pháp luật và suy yếu trật tự xã hội”; “Trong xã hội hình thành rõ xu hướng làm tổn hại các giá trị gia đình và các mối quan hệ. Các gia đình truyền thống nhiều thế hệ nhanh chóng tan rã và số con của mỗi cặp vợ chồng đang ngày một ít đi. Tốc độ tăng trưởng dân số ở Việt Nam đã giảm từ 3% cách đây 20 năm xuống còn 1%. Thêm vào đó là sự thâm nhập vào đất nước này thời trang Châu Âu vốn lạ lẫm với truyền thống và khí hậu Việt Nam cũng như các hình thức vui chơi giải trí phương tây. Đó là tự do tình dục với kết quả gần 50.000 ca phá thai hàng năm trong số trẻ vị thành niên. Việc tiêu sài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất là những nét không hoàn toàn đặc trưng cho những người Việt Nam cần kiệm. Tình trạng coi trọng ăn uống và nhậu nhẹt say sưa phổ biến trong những người trẻ tuổi dẫn đến kết quả tất yếu là bệnh béo phì. Nền tảng xã hội truyền thống và văn hoá Việt Nam đang dần dần bị huỷ hoại. Sự ảnh hưởng của nền văn minh hiện đại dưới hình thức các giá trị của xã hội phương tây làm gia tăng nguy cơ khó kiểm soát trong lĩnh vực chính trị xã hội và sự mất ổn định”.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên và quần chúng, rõ ràng là có nguyên nhân từ sự tác động của chiến lược "diễn biến hoà bình" trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, tác động của “đế quốc thông tin”, “xâm lăng văn hoá”.
Trong bối cảnh hiện nay, trên cơ sở nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá ta trên lĩnh vực tư tưởng lý luận văn hoá thì nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận văn hoá phải được tiến hành kiên quyết và đồng bộ trên những hướng chủ yếu sau:
Một là: Đội ngũ cán bộ và các cơ quan nghiên cứu lý luận ra sức tu dưỡng rèn luyện kiên định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, nắm vững phương pháp biện chứng duy vật, đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Trước hết, trả lời có sức thuyết phục những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nhiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời chuẩn bị các luận cứ khoa học, có sức thuyết phục cao, phê phán, bác bỏ các quan điểm tư tưởng sai trái.
Hai là: Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống chính trị của nước ta. Phải đổi mới cả nội dung, phương pháp giảng dạy và đổi mới cả đội ngũ giảng viên lý luận chính trị. Tất cả phải nhằm mục đích: Hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, xây dựng niềm tin có cơ sở khoa học và thực tiễn vào cương lĩnh, đường lối của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Ba là: Đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách của toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp phải đổi mới mạnh mẽ việc giáo dục đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước gắn chặt với giáo dục sâu sắc tinh thần cảnh giác cao cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời phát hiện, chủ động tấn công đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Bốn là: Đội ngũ cán bộ và các cơ quan báo chí phát thanh truyền hình xuất bản, phát hành, thông tin tuyền thông phải làm tròn vai trò chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng; Nâng cao hơn nữa trách nhiệm lãnh đạo, quản lý, sắp xếp lại, quản lý chặt chẽ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc chức năng nhiệm vụ báo chí cách mạng: là người tuyên truyền tập thể, giáo dục tập thể, tổ chức tập thể thực hiện cương lĩnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cung cấp thông tin nhanh – chính xác, kịp thời cho nhân dân; là diễn đàn của nhân dân. Đồng thời phải phê phán phản bác có sức thuyết phục, kịp thời mọi quan điểm sai trái, vạch trần lên án mọi âm mưu thủ đoạn diễn biến hoàn bình trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hoá.
Năm là: Các cơ quan, đơn vị, tổ chức văn hoá, đội ngũ văn nghệ sĩ phấn đấu tạo ra những tác phẩm, công trình văn hoá, văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao tạo rung cảm sâu rộng bồi dưỡng hướng dẫn mọi con người vươn tới chân thiện mỹ. Kiên quyết lên án phê phán đấu tranh với cái giả, cái xấu, cái ác. Mỗi thắng lợi thực tế trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá – hiện đại hoá và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong sự nghiệp xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi triệt để trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận văn hoá hiện nay.

  Ngọc Hùng

LỢI DỤNG TỆ THAM NHŨNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Như chúng ta biết, tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, kể cả ở nước nghèo và nước giàu, quốc gia phát triển, đang phát triển hoặc kém phát triển; không phân biệt do một đảng hay do đa đảng lãnh đạo.
Ở Việt Nam chúng ta, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành,… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong những năm trở lại đây, Đảng ta đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, nhiều biện pháp đã được thực hiện và đi vào cuộc sống, trở thành phương thuốc hữu hiệu ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng.
Tuy nhiên ở phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập về thủ đoạn lợi dụng tệ tham để chống phá Việt Nam chúng ta của các thế lực thù địch, nhất là trên phương tiện in-tơ-nét.
Hiện nay đại đa số bộ phận Nhân dân ta thường xuyên tiếp xúc in-tơ-nét, hẳn không xa lạ với những thông tin, bài viết có nội dung đề cập đến hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam được đăng tải trên các trang mạng, blog, wesite,… của một số cá nhân, hội, nhóm tự xưng là những nhà hoạt động “vì dân”, “vì nước”, v.v. Nhìn vào những thông tin, bài viết của các hội, nhóm, cá nhân trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nó thường mang nặng sự suy diễn chủ quan, tô vẽ, thổi phồng, thậm chí xuyên tạc trắng trợn tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Để lôi kéo người dân “tin tưởng” vào các luận điệu xuyên tạc, các hội, nhóm, nhà hoạt động trên thường lợi dụng những vụ án tham nhũng liên quan đến cán bộ, đảng viên đã xảy ra hoặc những sự việc tiêu cực trong xã hội để suy diễn, quy kết “do tham nhũng” và thổi phồng cho đó là tình trạng “phổ biến”, “bản chất” của chế độ xã hội chủ nghĩa, một “căn bệnh” do cơ chế độc đảng lãnh đạo, do “năng lực quản lý yếu kém” của Nhà nước, v.v. Chúng suy diễn rằng, có sự “bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” của lãnh đạo, chính quyền các cấp nên nó mới lộng hành như vậy; chúng còn lập riêng một số website, blog để đăng tải bài viết, hình ảnh xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ về đời tư, sự minh bạch của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. Với mục đích chúng nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo “Hoài nghi” về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội. Đi đôi với luận điệu xuyên tạc trên của các nhà hoạt động “dân chủ, nhân quyền” là những lời hô hào, xúi giục nhân dân “đoàn kết”, “đứng lên đấu tranh đòi tự do, dân chủ”; kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thay đổi: “Cương lĩnh”, “thể chế chính trị”, “mô hình lãnh đạo”, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, v.v.

Vì vậy, là những người Việt Nam yêu nước, chúng ta phải có trách nhiệm, góp cả công sức và trí tuệ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ nước nhà ngày càng vững mạnh. Trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm, nhưng trách nhiệm đó phải được đặt đúng chỗ, đúng pháp luật thì mới đem lại hiệu quả cao. Tránh tiếp thu các thông tin một cách phiến diện, không suy nghĩ thật kĩ, thấu đáo,… mà có những suy nghĩ, bình luận, việc làm vội vã, không đúng, vi phạm pháp luật, nhất là vô tình góp phần cho các thế lực thù địch đạt được mục đích của họ.
Đình Quang

Vẫn là trò xuyên tạc, lừa bịp dư luận

Hiện tượng mượn danh đấu tranh cho dân chủ của một số phần tử cơ hội chính trị ở Việt Nam lâu nay không còn lạ đối với dư luận. Những người này thường nhân cơ hội trong nước xảy ra một sự việc gì đó thì dựa vào để viết bài, tung lên mạng xã hội, hoặc đăng tải trên một số trang tin lâu nay vẫn có tư tưởng thiếu thiện chí, thù địch với Việt Nam.
Trong các bài viết, họ thường phân tích, suy thế này, luận thế kia một cách hoàn toàn chủ quan, từ hiện tượng mà suy thành bản chất, sau đó đưa ra những kết luận theo kiểu: Xảy ra các sự cố đó là do “sự yếu kém trong bộ máy lãnh đạo của Đảng”, “sự hạn chế trong điều hành của Chính phủ”... Nhằm che mắt người đọc, trong các bài viết, họ thường bịa ra các con số để minh họa cho các nhận định mà nếu không tìm hiểu kỹ thì người đọc rất dễ bị nhầm lẫn. Bài viết của Nguyễn Vũ Bình, đăng trên RFA vừa qua là một dạng như vậy.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Vũ Bình đã vừa xiên xẹo về công tác xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), vừa đưa ra những nhận định hết sức mơ hồ về cái gọi là “sự sụp đổ của Đảng Cộng sản”. Những con số mà Nguyễn Vũ Bình đưa ra để minh chứng cho các nhận định của mình trong bài viết thì lại càng lố bịch. Chẳng hạn, Bình cho rằng hiện nay, đất nước ta đang duy trì lực lượng vũ trang với số quân lên tới “10 triệu người”; rồi lại cho rằng đội ngũ công chức, viên chức lên tới “15 triệu người”... Đây quả thực là những con số phi lý và hoang tưởng. Bởi trên thế giới này, không một đất nước nào có thể làm một việc vô lý, đó là trong thời bình mà lại duy trì một đội quân thường trực lên tới hơn 11% dân số. Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của chúng ta bước vào giai đoạn cuối-giai đoạn cần một lực lượng lớn nhất để thực hiện đòn quyết chiến chiến lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thì lực lượng vũ trang của chúng ta cũng không đạt đến con số 10 triệu người...

Còn về con số “15 triệu người trong bộ máy Đảng, Nhà nước” như Bình đã viết thì thực tế tính đến hết năm 2015, lãnh đạo Bộ Nội vụ cho biết, cả nước có khoảng 11 triệu người hưởng lương và tính chất lương (bao gồm cả lực lượng vũ trang, y tế, giáo dục v.v..). Còn tổng số công chức hưởng lương trong hệ thống chính trị từ cấp huyện trở lên (không bao gồm lực lượng vũ trang) được Thủ tướng phê duyệt năm 2015 chính thức là 277.055 người. Và con số này tiếp tục giảm trong năm 2016 khi Nhà nước ngày càng thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế để bảo đảm bộ máy ngày càng tinh gọn theo hướng chỉ bổ sung không quá 50% số công chức so với số nghỉ hưu... Như thế có thể thấy, việc Nguyễn Vũ Bình cố tình bịa ra những con số hoang đường về lực lượng vũ trang và đội ngũ công chức, viên chức... là nhằm tạo ra sự hiểu lầm trong dư luận về hệ thống tổ chức chính trị ở Việt Nam. Và cũng từ đây có thể thấy, những điều Bình nhận định trong bài viết về các vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam... đều nhằm mục đích xuyên tạc, lừa bịp dư luận.
Minh Tâm