Thứ Ba, 28 tháng 2, 2017

NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG NỘI BỘ

Ðấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ là nhiệm vụ rất quan trọng trong thực hiện Nghị quyết Ðại hội lần thứ XII của Ðảng, Nghị quyết T.Ư 4, khóa XII (Nghị quyết T.Ư 4). Ðồng thời, đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, phải được tiến hành liên tục, thường xuyên và thực chất.
Khi nghiên cứu Nghị quyết T.Ư 4, có đồng chí nêu những băn khoăn: thứ nhất, khái niệm này mới quá, tình hình thực tế có đến mức như thế không, có cách nào diễn đạt khác không; thứ hai, nội hàm của khái niệm cần phải làm rõ hơn, vì rằng tự diễn biến, tự chuyển hóa có vẻ như còn chung chung, mới là sự "báo động", bởi khi nói suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì đã hàm chứa sự diễn biến và chuyển hóa từ bên trong rồi.
Bày tỏ những băn khoăn đó không sợ bị "đánh giá" về tư tưởng mà còn thể hiện sự nghiêm túc, muốn tìm hiểu, nghiên cứu một cách thấu đáo để đối chiếu với tình hình thực tiễn. Bởi chính Nghị quyết T.Ư 4 cũng nêu rõ trong phần giải pháp về công tác chính trị tư tưởng: "Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả".
Thật ra khái niệm tự diễn biến, tự chuyển hóa không hoàn toàn mới. Từ Ðại hội lần thứ XI, Ðảng ta đã chỉ rõ: Trong nội bộ, có những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, tự diễn biến, tự chuyển hóa. Ðến Ðại hội XII, Ðảng ta một lần nữa nhấn mạnh, cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa.
Tự diễn biến nếu hiểu một cách đơn giản là sự dao động, diễn biến tâm lý theo xu hướng cực đoan, nay nghĩ thế này, mai nghĩ thế khác, nay nghĩ tốt, mai cho là xấu, nay bảo trắng, mai bảo đen. Từ những dao động ban đầu ấy nếu không tự nhìn nhận lại những suy nghĩ của mình, không được đồng chí, anh em góp ý sẽ dẫn tới chệch hướng, mất niềm tin. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có một câu nói rất đơn giản của cán bộ cấp phân đội mà ai từng làm lính đều nhớ: "Tư tưởng không thông vác bi-đông không nổi". Còn thời chúng ta đang sống đây, các bạn trẻ thường gọi thời @, khi tư tưởng không thông thì chuyện gì sẽ xảy ra? Ðó là những thói tật: chém gió, bàn lùi, vô cảm, a dua... Có một cán bộ nọ hôm trước vừa hăng hái ủng hộ xây dựng công trình đầu tư hàng nghìn tỷ đồng, với đủ lý do về tái cơ cấu kinh tế, phát triển công nghiệp của tỉnh, hôm sau lại nói khác hẳn. Ý kiến bỗng quay ngoắt 180 độ: dư luận cho rằng dự án này có dấu hiệu lợi ích nhóm, lãng phí, gây ô nhiễm môi trường... Không phải ông suy nghĩ lại nên đã thận trọng hơn, mà chỉ vì ông nghe tin sắp tới sẽ được điều động đến một địa phương khác (!).
Ðó là nói về tự diễn biến.Còn tự chuyển hóa trong nội bộ? Chúng ta ngày càng thấy rõ đường đi từ những băn khoăn, do dự, dao động chuyển sang tự chuyển hóa, từ cá nhân một người mà lan sang nhiều người, sang cả một tổ chức. Sự lây lan ấy như một thứ vi-rút nguy hiểm, mắt thường không thấy được. Nghị quyết T.Ư 4 chỉ rõ, khi "con bệnh" đã nặng thì sẽ chuyển hóa đến mức: "Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Ðảng và Nhà nước".
Tự diễn biến, tự chuyển hóa có nội hàm khác nhau và thông thường tự diễn biến xảy ra trước.Nhưng trong thực tiễn, thật khó phân biệt rạch ròi. Ðúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới tự diễn biến, tự chuyển hóa chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường". Tự diễn biến, tự chuyển hóa đều là cái bên trong con người, là tư duy, phẩm chất con người. Tuy nhiên, qua sinh hoạt đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, qua những việc làm cụ thể của mỗi người, đồng chí, bạn bè có thể "đọc" được những suy nghĩ của họ. Một số cán bộ có chức quyền tham nhũng, vi phạm pháp luật khi phải nhận mức án cao nhất đã nói những lời gan ruột: Những sai lầm của tôi các đồng chí trong cấp ủy đều đã chỉ ra. Rất tiếc khi đó tôi đã không nghe, vì cho rằng mọi người đã "nâng quan điểm" cao quá, vì tôi quá tự tin, hiếu thắng. Giá mà tôi biết dừng lại!
Trong sự sám hối muộn màng đó, không thấy có lời tự nhận rằng đồng chí ấy đã tự chuyển hóa. Nhưng những người cùng chung con thuyền thì thấy rất rõ con người anh ta, từ khi có chút quyền lực đã lạm dụng quyền lực, thay đổi quá nhanh về lối sống, về thái độ công tác, đơn giản nhất là sự ứng xử với đồng chí, đồng nghiệp không còn trong sáng, chân thành. Thậm chí còn vào hùa với những phát ngôn mang tư tưởng dân chủ cực đoan, bịa đặt, thổi phồng những khuyết điểm của cấp trên, những mặt trái trong xã hội.
Tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ và trong mỗi con người đều có nguyên nhân khách quan, chủ quan, trong đó có nguyên nhân cán bộ, đảng viên coi nhẹ việc học tập lý luận chính trị, hoặc có học nhưng không hành, có được tấm bằng này bằng nọ cốt để làm đẹp hồ sơ cán bộ. Ðiều này, ngay từ năm 1947 khi viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông.Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách". Nghị quyết T.Ư lần này nêu rất cụ thể: "Ðẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Ðảng. Ðổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả".
Trong bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp, phần giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình Trung ương xác định mười vấn đề lớn.Ðây là sự chỉ đạo mang tính lý luận và thực tiễn hết sức cơ bản, nhuần nhuyễn. Nếu thực hiện tốt theo Nghị quyết, nhất định sẽ thu được những kết quả tích cực, làm chuyển biến tình hình.
Ðương nhiên các nhiệm vụ, giải pháp phải được tiến hành đồng thời. Bởi vì ở đây đó có tư tưởng cho rằng, công tác tư tưởng thế là kỹ rồi, tốt rồi, đã "thuộc bài" ngay từ Nghị quyết T.Ư 4, khóa XI. Bây giờ là lúc phải dồn sức vào công tác tổ chức, phải luật hóa các chủ trương của Ðảng, đặc biệt là chế độ, chính sách cán bộ. Chẳng hạn cần sớm xóa bỏ bằng được cơ chế "xin - cho", "duyệt - cấp"; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm", "sân sau", trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công... Làm được như thế thì người có chức quyền sẽ không dễ, không thể và không cần tham nhũng. Ý kiến khác thì nhấn mạnh việc kiểm tra, xử lý cán bộ sai phạm. Tướng sai thì "trảm" tướng, quân sai thì "xử" quân, thế là quang minh chính đại, chớ có "xem xét, điều tra" quá lâu, lần mò như kẻ dò đá qua sông.
Những bức xúc, những kiến nghị đó là có cơ sở, chúng ta đã và đang làm. Hàng chục vụ án nghiêm trọng đã xử và chuẩn bị xử. Nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp đương chức và đã về hưu mắc khuyết điểm nghiêm trọng đã bị xử lý kỷ luật, không để "chìm xuồng". Xử lý kiên quyết nhưng lại phải thận trọng, đúng pháp luật, đúng Ðiều lệ Ðảng, có lý, có tình.

Hơn lúc nào hết trong xây dựng, chỉnh đốn Ðảng phải kế thừa những truyền thống, kinh nghiệm trước đây, lấy "xây" làm chính.Xây dựng để Ðảng ta, đất nước ta vững mạnh lên về mọi mặt là điều cốt lõi. Muốn vậy phải tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Ðảng, định hướng xã hội chủ nghĩa, không một mưu đồ, thế lực nào có thể lung lạc, cản trở. Bên cạnh đó "chống" cũng là để "xây". Và dù có xử lý nghiêm khắc bao nhiêu cũng là nhằm làm cho Ðảng ta mạnh lên, nội bộ đoàn kết thống nhất, niềm tin của Dân với Ðảng được củng cố, như lời một đảng viên lão thành tâm sự khi nhận Huy hiệu 70 năm tuổi Ðảng: "Mong mỗi đồng chí chúng ta ngày càng bản lĩnh, trí tuệ, tinh tấn - tinh tấn ấy nghĩa là tỉnh ngộ, trong sáng đi theo mà tiến tới mục tiêu, lý tưởng của Ðảng ta, của Bác Hồ".
Đức Nhân

BẢN CHẤT THÂM THÙ CỦA BỌN CƠ HỘI, BẤT MÃN CHÍNH TRỊ

                                                          
Cơ hội và bất mãn chính trị là hiện tượng xã hội xuất hiện khá sớm trong lịch sử nhân loại. Ở Việt Nam, trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, nhất là ở những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử, thường xuất hiện những phần tử cơ hội và bất mãn chính trị dưới nhiều màu sắc với những mức độ khác nhau. Hiện nay, các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị được sự cổ vũ, hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, chúng càng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, làm rối loạn tư tưởng xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín, vị thế và sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đến mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức phấn đấu thực hiện.
Trong tình hình hiện nay, việc nhận diện một cách chính xác các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị để có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Không nhận diện đúng và phân biệt rõ hiện tượng và bản chất của chúng thì không thể có giải pháp đấu tranh đúng đắn, hiệu quả.
Nhìn nhận một cách tổng quát ở nước ta hiện nay, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ ra, cũng đã có những biểu hiện của cơ hội và bất mãn chính trị. Cơ hội và bất mãn chính trị là những người có quan điểm, thái độ chính trị thiếu nhất quán, không kiên định, vững vàng; khi cách mạng phát triển thuận lợi thì tỏ ra tích cực, hăng hái; khi cách mạng gặp khó khăn thì dao động, thoái chí, thỏa hiệp, thậm chí phản bội, đầu hàng, quay lại chống phá cách mạng. Những phần tử này thường núp dưới danh nghĩa đổi mới, cải cách, dân chủ, nhân quyền để mưu đồ lợi ích riêng, chống phá cách mạng, xóa bỏ mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Cơ hội chính trị và bất mãn chính trị là những khái niệm biểu hiện tư tưởng chính trị khác nhau, đều nguy hại, song chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, cơ hội chính trị mang trong mình cả yếu tố bất mãn chính trị; bất mãn chính trị có thể chuyển hóa thành cơ hội chính trị. Các phần tử này đều câu kết với các thế lực thù địch, hoặc các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, hỗ trợ, tiếp sức và câu kết với chúng, trở thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn về phía đối lập, chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta. Sự chống phá của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị diễn ra trên mọi lĩnh vực, được thực hiện một cách kiên trì, có nội dung, phương thức và lộ trình rõ ràng, ngày càng trở nên tinh vi, xảo quyệt và hết sức nguy hiểm. Đấu tranh với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị là yêu cầu khách quan, thường xuyên, là vấn đề cấp bách hiện nay, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, sinh mệnh của Đảng, nhằm phát hiện, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu và các hoạt động chống đối của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với những luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao, không nên đấu tranh theo kiểu “hàng tôm, hàng cá”. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi các tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán với âm mưu tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, kích động nhân dân, đặc biệt là kích động đồng bào các dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị có những biểu hiện đa dạng và phức tạp; mức độ ảnh hưởng và tác hại của các dạng cơ hội, bất mãn chính trị khác nhau là có sự khác nhau. Vì vậy, trong đấu tranh với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, với từng đối tượng cụ thể, cần thực hiện những giải pháp thiết thực, phù hợp mang lại hiệu quả cao nhất./.

  Tài Bá

PHẢI NHÌN NHẬN ĐÚNG DƯ LUẬN

         Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo và các phương tiện truyền thông đã xuất hiện không ít những dư luận lẫn lộn xuôi chiều, trái chiều. Nếu như không phân tích đánh giá kỹ thì dẫn đến nhận thức lệch lạc sai lầm, tin theo những quan điểm sai trái, mất lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước sự chống phá của các thế lực thù địch thì những thông tin không chính thống càng có xu hướng phát triển nhằm không ngừng xuyên tạc, chống phá Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách của Đảng.
      Nhận thức đánh giá đúng xu hướng diễn biến của dư luận là một vấn đề rất quan trọng, định hướng tư tưởng, củng cố lập trường, xây dựng niềm tin cho cán bộ đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân với sự lãnh đạo của đảng. Đồng thời nhìn nhận đúng đắn và đấu tranh kiên quyết với những dư luận sai trái xuyên tạc của các thế lực thù địch, làm cho Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của xã hội.
       Chúng ta cần nhận dạng một số dư luận trái chiều, xuyên tạc đang tồn tại hiện nay như sau: những quan điểm phủ nhận những thành quả của đất nước, những thành tựu đổi mới mà toàn Đảng, toàn dân ta đang tiến hành; mượn một số tồn tại nhất thời trong phát triển kinh tế - xã hội, chính sách an sinh xã hội để xoáy sâu vào những yếu kém, kích động tạo sự hoài nghi của đội ngũ cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền một số địa phương; bôi nhọa, nói xấu vai trò lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tạo dư luận trái chiều chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, phê phán, tâng bốc cán bộ lãnh đạo theo hướng một chiều, vô căn cứ…
        Nhìn nhận đánh giá đúng dư luận xã hội hiện nay là cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm củng cố, bảo vệ Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Do đó hơn lúc nào hết chúng ta cần phải tỉnh táo, phân tích khách quan toàn diện những diễn biến của tình hình và đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch.



Hữu Tài





Nhận diện “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

          Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước ta. Điều đáng quan ngại là nó diễn ra ngấm ngầm rất khó nhân diện. Vì thế, cần phải cảnh giác, có biện pháp phòng, chống hiệu quả.
          Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó”; “chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác, hình thái khác”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên từ thái cực này sang thái cực khác mà hậu quả nó gây ra hết sức nguy hiểm, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến chuyển hóa chế độ.
          Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam, v.v. Tất cả những biểu hiện đó, là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguy hại hơn là trong số những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả một số vị là lão thành cách mạng, cán bộ cấp cao, trí thức có tên tuổi, ít nhiều có cống hiến cho đất nước, cho nên những nhận thức và hành động của họ dễ lây lan, phát tán là điều dễ hiểu.
          “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phân hóa giàu nghèo, … dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, v.v. Khi bị phát giác, xử lý kỷ luật thì bảo thủ, không những không nhận ra sai lầm, khuyết điểm mà lại bất mãn, suy diễn, dẫn đến thay đổi nhận thức, quan điểm, lập trường, thiếu niềm tin vào Đảng, chế độ. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị dẫn tới sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng, chính trị. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chặt chẽ và chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội, hệ thống thông tin đại chúng và tác động của mặt trái cơ chế thị trường, … ngày một gia tăng đã làm nghiêm trọng thêm sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
 Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng nguy hiểm hơn trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau và là hệ quả của nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “đồng minh” tự nhiên của “diễn biến hòa bình”, làm cho nó càng nguy hiểm hơn; đến lượt nó - “diễn biến hòa bình” lại tác động trở lại thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ. Nó có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội; nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên, quần chúng đến những người có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp.
          Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mới đây, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Điều đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đồng thời, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này.


        Duy Nghị

CHIÊU BÀI CŨ VÀ NHỮNG CON “GÀ MỜ” DỄ DÀNG SA BẪY

       Trong thời gian vừa qua trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội liên tục đưa tin về vụ linh mục Nguyễn Đình Thục tụ tập, kích động người dân giáo xứ Song Ngọc-Quỳnh Lưu-Nghệ An lấy cớ khiếu kiện Fomosa, gây rối trật tự công cộng, ném ghạch đá gây thương tích cho lực lượng chức năng, cản trở gây ách tắc giao thông trên đường 1A đoạn qua địa bàn xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu. Sau khi được các cấp chính quyền địa phương, lãnh đạo tỉnh Nghệ An tuyên truyền, giải thích, vận động, người dân nhận thức ra vấn đề và cơ bản tự động giải tán.
         Dù vậy, ngày 15/02/2017 Ban Công Lý và Hòa bình, Giáo phận Vinh vẫn ra Thông báo “Về việc nhà cầm quyền dùng bạo lực ngăn chặn người dân nộp đơn khởi kiện Fomosa” với nội dung xuyên tặc, trắng trợn vu khống chính quyền đàn áp giáo dân, vi phạm dân chủ.
       Ngay sau đó, vào ngày 18/02/2017, trên trang mạng xã hội lan truyền clip dài 28 giây, ghi lại cảnh một lượng nước lớn màu đỏ được xả ra từ miệng cống hình hộp với chú thích: Đây là nước xả thải từ nhà máy gang thép Hưng Nghiệp (Fomosa) ở Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Như một vius cực mạnh, clip này nhanh chóng được Share, like, comment tràn lan trên các trang mạng xã hội.
Các sự việc trên tưởng chừng như là những hiện tượng đơn lẻ, không có mối liên hệ gì với nhau (nhất là vụ lấy cớ khiếu kiện và cống nước xả) song thực chất đây đều là chiêu bài của các phần tử phản động, chống đối chính quyền đi ngược lại lợi ích của nhân dân Việt Nam nhằm gây bất ổn tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân; đồng thời, đó là hoạt động trục lợi của những tên phản quốc lòng lang dạ sói như Nguyễn Đình Thục nhằm rút tiền từ tổ khủng bố “Việt Tân”.
        Sự thật trên đã nhanh chóng bị phơi bày, bằng chứng cụ thể là cảnh quay nước xả thải nói trên thực chất là nước rửa xe tải chở phân lân rửa và xả ở Cầu Cảng 4-cảng Tiên Sa-Đà Nẵng chứ không phải ở Fomosa như các phần tử phản động đã tung tin, đồn nhảm. Khi bị cộng đồng mạng bóc mẽ clip trên là dối trá, Nguyễn Đình Thục không còn cách nào khác đã dùng khổ nhục kế, tự nhận mình là “hồ đồ” và “hấp tấp” không xem xét kỹ nên đăng tải thông tin không đúng sự thật. Nguyễn Đình Thục, thân là linh mục không chăm lo, trông coi con chiên của mình, sống cho “tốt đời, đẹp đạo” lại đi xúi dục, kích động giáo dân làm loạn, đẩy bao nhiêu người vào vòng lao lý. Bản thân y bị bề trên là Đức cha Phaolo (chủ chăn giáo phận Vinh) chỉ đạo và yêu cầu Thục “phải đưa giáo dân Song Ngọc quay về và thực hiện khởi kiện theo cơ chế cử người đại diện thay vì đi đông người, gây ách tắc giao thông, bị chính quyền lên án”. Khi đã hoàn thành hợp đồng với bọn “Việt Tân” ở nước ngoài, được giải ngân và ẵm một số lượng lớn đô la, linh mục Nguyễn Đình Thục thảnh thơi du hí Vũng Tàu cùng các đối tượng đầu sỏ của “Việt Tân” ở trong nước như Bùi Thị Minh Hằng (vừa ra tù), Lê Thăng Long, Nguyễn Thúy Quỳnh…bỏ mặc bầy con chiên ngơ dại với lời hứa “sẽ khiếu kiện tiếp” nhưng chưa biết đến khi nào…
       Bản chất sự việc cũng như mục đích thật của linh mục Nguyễn Đình Thục đã quá rõ ràng, không cần phải bàn cãi nữa. Vấn đề đáng nói ở đây là bên cạnh số bè lũ đồng đảng của bọn “rận râm chủ” cổ súy cho hành động phi pháp nói trên thì rất đáng tiếc còn có sự cả tin đến “gà mờ” của một số khá lớn đông đảo các cư dân mạng, không loại trừ có cả cán bộ, đảng viên; thậm chí cả những tờ báo từ lá cải tới chính thống dễ dàng bị âm mưu đen tối của Nguyễn Đình Thục cùng đồng bọn “dắt mũi”, nhanh chóng a dua theo số đông, phụ họa cho hành động sai trái, làm công cụ truyền thông không công cho chúng. Trong thời đại công nghệ, thông tin bùng nổ như hiện nay, bên cạnh mặt tốt thì cũng vô vàn thông tin nhảm nhí, độc hại do đó khi tiếp thu cần có chọn lọc, thận trọng. Cũng có thể chỉ vì yêu mến và lo lắng cho quê hương, đất nước, thương người dân lam lũ nhọc nhằn, muốn thể hiện lòng ái quốc, nhưng do thiếu hiểu biết nên lòng tốt bị lợi dụng và rơi vào bẫy của bọn phản động, các thế lực thù địch. Thế nên HÃY LUÔN YÊU NƯỚC BẰNG TRÁI TIM NÓNG VÀ CÁI ĐẦU LẠNH cùng bài học về “trái tim nhầm chỗ đặt lên đầu” vẫn luôn nóng hổi cho mỗi người Việt yêu nước chân chính./.

         Trọng Phú

Kiên quyết không để “phi chính trị hóa quân đội ”

“Diễn biến hòa bình” là chiến lược toàn cầu phản cách mạng do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành bằng các biện pháp phi quân sự, nhằm chiến thắng chủ nghĩa xã hội không cần chiến tranh; “Phi chính trị hóa” quân đội là một trong những thủ đoạn nham hiểm, thâm độc của chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Đây là luận điểm đã có từ lâu nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hoặc hạn chế sự “can dự,” “tham gia” của quân đội vào việc tranh giành quyền lực chính trị.
Các thế lực thù địch cho rằng, để chuyển hóa được chế độ cộng sản ở Việt Nam, nhất thiết phải tạo cho được “khoảng trống” về ý thức hệ, phải phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấp vào “khoảng trống” đó là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Một hướng mới được các thế lực thù địch tăng cường đầu tư là tranh thủ lôi kéo, mua chuộc một số cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu, trong đó có cả tướng lĩnh quân đội, những cán bộ bị kỷ luật, bất mãn với chế độ để thực hiện các hoạt động chống Đảng, Nhà nước, núp dưới chiêu bài “góp ý với Đảng”, các vấn đề “dân chủ,” “nhân quyền,” “đổi mới đất nước...” thông qua các “bức thư tâm huyết”, “thư ngỏ”,  “kiến nghị của công dân”… một số người đã lên tiếng kiến nghị với Đảng rằng “các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào,” “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và Nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức chính trị nào, đảng phái nào;” “quân đội và công an chỉ cần tuân theo pháp luật;” “quân đội cần đứng ngoài chính trị”... Theo đó, một số người đã ngạo mạn cho rằng “ở Việt Nam, lực lượng vũ trang không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”...
Thực chất của những quan điểm nêu trên là nhằm “phi đảng hóa,” “phi chính trị hóa,” phá hoại mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân với quân đội và công an; tách quân đội ta ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, chia rẽ mối đoàn kết giữa quân đội với công an; tăng cường móc nối, cài cắm người vào quân đội, công an làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang; xuyên tạc, gây căng thẳng, bất đồng, tranh chấp, xung đột chủ quyền biên giới, hải đảo với các nước láng giềng… để dễ bề thực hiện những ý đồ đen tối: xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành được. Cần khẳng định ngay rằng, những luận điệu nêu trên là hết sức nguy hiểm, rất phản động, phản khoa học, vì nó trái với pháp lý và hoàn toàn không đúng với đạo lý, nhân cách con người Việt Nam yêu nước, biết quý trọng những giá trị tốt đẹp mà lịch sử văn hóa dân tộc và thành quả cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu của mình mới giành lại được độc lập, tự do, mới có cuộc sống ấm no, hòa bình và hạnh phúc hôm nay.
Trong xây dựng quân đội của bất kỳ quốc gia nào thì vấn đề chính trị luôn được đặt lên hang đầu là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển của quân đội ấy, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị-xã hội và vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Chính trị của quân đội, thực chất là vấn đề bản chất giai cấp của quân đội. Chúng ta đều biết: Chính trị của quân đội vô sản, lực lượng vũ trang nhân dân là thực hiện chính trị của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ Đảng, Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; biểu hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân sáng lập, tổ chức, giáo dục, rèn luyện. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, quân đội không những chỉ tuân theo hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, mà trước hết phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng. Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước là điều kiện tiên quyết để quân đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. Vì vậy, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là yêu cầu cơ bản, thường xuyên, trọng yếu trong xây dựng quân đội kiểu mới, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Ai đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xem nhẹ, buông lỏng vấn đề xây dựng quân đội về chính trị, tất yếu sẽ dẫn đến kết cục làm cho quân đội mất phương hướng chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội ấy sẽ trở nên vô dụng, có hại cho dân, cho nước. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã chứng minh điều đó.
Từ những vấn đề trên, cho thấy tính chất phi lý, phản động, phản khoa học của quan điểm “các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về chính trị,” “lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân,” “quân đội chỉ tuân theo pháp luật,” “quân đội không cần sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản...” cần phải bác bỏ.
Nghiên cứu lịch sử nhân loại, ai cũng biết rằng, sự xuất hiện của quân đội gắn liền với chính trị, sự ra đời của nhà nước và chiến tranh; không thể có và không bao giờ có quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị. Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, nhà nước và đảng phái chính trị, do nhà nước, đảng phái chính trị nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu tranh vũ trang, thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra và nuôi dưỡng nó. Ở các nước tư bản phát triển như Anh, Mỹ, Pháp..., quân đội không chỉ được dùng vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc; mà còn được dùng vào việc lật đổ, can thiệp quân sự, xâm lược các quốc gia khác nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở nơi chúng đến các chính phủ thân phương Tây, có lợi cho phương Tây. Từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ liên tục can dự vào đời sống chính trị của nhiều nước có độc lập chủ quyền kể cả tiến hành chiến tranh ở Nam Tư, Afghanistan, Iraq, Libya... Rõ ràng, nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cho thấy, quân đội của các nước tư bản không bao giờ “trung lập về chính trị.” Ở các nước có chế độ đa đảng chính trị thì đảng nào khi cầm quyền cũng đều tìm mọi cách để nắm giữ quân đội và triệt để sử dụng quân đội để bảo vệ lợi ích của mình. Bài học xương máu rút ra từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào, Đảng Cộng sản cũng không được rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác-Lê nin; tuyệt đối không được mắc sai lầm trong việc xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội; không được để quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội, chân lý này đã được lịch sử cách mạng Việt Nam và sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội ta hơn 70 năm qua chứng minh. Hiện nay, Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vai trò là lực lượng nòng cốt cùng với toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đây chính là sự biểu hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta, một tổ chức quân sự kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, tổ chức, giáo dục, rèn luyện. Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam được thể hiện rất sâu sắc trong bản chất chính trị-xã hội của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Những người đưa ra luận điểm “quân đội chỉ tuân theo pháp luật,” “quân đội phải trung lập đứng ngoài chính trị,”… họ đã cố tình làm cái việc “tách” vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ta. Đó là quan điểm vừa phản khoa học vừa phi lịch sử; thực chất của quan điểm này nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt nam; tách quân đội, ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng quân đội về chính trị, coi đó là gốc, rễ, nền tảng để xây dựng quân đội ta vững mạnh về mọi mặt; nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, bởi lẽ, “quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa quân đội” là cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá đúng tình hình, dự kiến chính xác xu hướng phát triển của thế giới, khu vực tác động tới những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Đặc biệt là những ấm mưu thủ đoạn mới để có giải pháp đấu tranh cho phù hợp, không để bị động, bất ngờ. Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, “xây” với “chống”, lấy “phòng” và “xây” làm chính, phát huy cao độ sự đồng tâm, hiệp lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống, phá của các thế lực thù địch, phần tử xấu đối với cách mạng Việt Nam. Hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên và công dân Việt Nam phải luôn thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản than chúng ta… Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”./.
Luk Chính

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ CHUYẾN THĂM TRUNG QUỐC CỦA TỔNG BÍ THƯ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Một trong những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch là: Chuyến thăm Bắc Kinh lần này của Tổng bí thư “nhiều phần là do sự thúc giục từ phía Bắc Kinh”. Luận điệu của chúng để giải thích cho những  “võ đoán” này là: “Trước tác động mạnh mẽ của việc chính quyền mới ở Mỹ do ông Trump làm tổng thống sẽ dẫn đến nguy cơ đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, từ đó việc tranh giành ảnh hưởng của các nước đó đối với Việt Nam rất quan trọng bởi Việt Nam nằm trong địa chiến lược chính trị quan trọng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Trung Quốc có ý đồ muốn Việt Nam nghiêng về phía Trung Quốc.” Chúng cũng cho rằng chuyến viếng thăm lần này “hoàn toàn không vì nhu cầu “xây dựng đối tác chiến lược giữa hai nước,” mà là để phục vụ cho nhu cầu của họ Tập trong việc lôi kéo Hà Nội trong chiến thuật đối đầu với ông Trump.”
Những luận điệu như trên thực chất chỉ là sự xuyên tạc, không dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi lẽ:
Thứ nhất, đây là hoạt động đối ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước ta, là cuộc gặp đầu tiên giữa lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước kể từ sau Đại hội XII của Đảng ta và sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức xác lập vị trí “hạt nhân lãnh đạo” của Tổng  Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, chuẩn bị cho đại hội XIX, định hướng lâu dài cho quan hệ hai Đảng, hai nước. Đồng thời nhằm tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc, và là sự khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam theo phương châm độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội  nhập quốc tế và đưa mối quan hệ với các đối tác lớn đi vào chiều sâu (trong đó có Trung Quốc), tạo môi trường thuận lợi để phát triển và bảo vệ đất nước. Hơn nữa chuyến thăm lần này cũng là mốc son kỷ niệm 67 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc.


Mục đích và ý nghĩa của chuyến thăm là rất rõ ràng, tuy nhiên, như chúng ta thường thấy một đặc điểm mang tính cố hữu của các thế lực thù địch chống phá Đảng là mỗi khi đất nước có sự kiện chính trị trọng đại hay nhạy cảm thì các thế lực chống phá Đảng lại ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật. Chuyến thăm của Tổng bí thư lần này cũng là một sự kiện chính trị quan trọng (chuyến thăm ngoại giao cấp nhà nước) để tăng cường hợp tác quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ.
Kết quả thực tế của chuyến thắm đã cho thấy  những luận điệu về mục đích chuyến thăm chỉ là sự xuyên tạc vô căn cứ. Kết thúc chuyến thăm hai bên đã đạt được nhận thức chung quan trọng về quan hệ hai nước, đó là: Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời, sự phát triển bền vững của mỗi nước và quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữ hai nước có ý nghĩa quan trọng đối với cả hai nước.
Đồng thời, hai bên đã đưa ra được nhiều thông cáo chung, trong đó có thông cáo về vấn đề Biển Đông. Hai bên nhấn mạnh cần tuân thủ nhận thức chung đã đạt được và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc”; sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt – Trung; kiên trì thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ, không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển. Hơn thế nữa, kết thúc chuyến thăm, hai bên đã ký kết được 15 văn kiện hợp tác giữa các ban, bộ, ngành đó là:
- Thỏa thuận hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc.
- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Ban Kinh tế Trung ương với Trung tâm Nghiên cứu phát triển Quốc vụ viện Trung Quốc. 
- Công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.
- Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025. 
- Hiệp định khung hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Tổng cục Hải quan Trung Quốc. 
- Bản ghi nhớ về hợp tác triển khai viện trợ không hoàn lại chuyên về lĩnh vực y tế công cộng giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam với Bộ Thương mại Trung Quốc. 
- Bản ghi nhớ giữa Bộ Công thương Việt Nam và Tổng cục Giám sát chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch quốc gia Trung Quốc về việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật thương mại. 
- Thỏa thuận hợp tác thả giống nuôi trồng nguồn lợi thủy sinh khu vực vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc. 
- Kế hoạch hợp tác du lịch Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017-2019.
- Thỏa thuận hợp tác giữa Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật và Nhà xuất bản Nhân dân Trung Quốc giai đoạn 2017-2021.
 - Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai đoạn 2017 - 2021 giữa Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội Hữu nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc. 
- Bản ghi nhớ hợp tác giữa Trung ương Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam và Trung ương Hội Chữ thập Đỏ Trung Quốc. 
- Bản ghi nhớ về việc hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề “Sức lôi cuốn của Việt Nam - sức lôi cuốn của Trung Quốc” giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc. 
- Thỏa thuận hợp tác giữa Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh quốc tế Trung Quốc.
- Biên bản ghi nhớ giữa Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Trung Quốc về việc hợp tác tài trợ dự án và cho vay song phương trung, dài hạn giai đoạn 2017-2019.
Có thể nói rằng, chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn PhúTrọng đã thành công tốt đẹp, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, củng cố hữu nghị, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất, cùng có lợi trên các lĩnh vực giữa hai nước, duy trì hòa bình, ổn định, và phát triển tích cực, lành mạnh quan hệ Việt – Trung, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước.
Thứ hai, các thế lực chống phá Đảng không những đã cố tình lờ đi ý nghĩa đó, mà chúng còn quên đi một thực tế rằng, trong thế giới ngày nay, mối quan hệ giữa các quốc gia luôn có tồn tại những yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực. Vì vậy, việc vận dụng khéo léo đường lối ngoại giao sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước là điều hết sức quan trọng với phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Điều đó đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử 4000 năm dựng xây và phát triển đất nước trong quan hệ với Trung Quốc, để có nền độc lập, tự do như Việt Nam hiện nay là sự nỗ lực rất lớn của đường lối ngoại giao khéo léo của Việt Nam.

Vì vậy, hiểu rõ mục đích, ý nghĩa và kết quả của chuyến thăm là cơ sở mỗi chúng ta củng cố niềm tin với Đảng, niềm tin vào đường lối chính sách đối ngoại mà Đảng ta đang kiên trì thực hiện đó là: độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội  nhập quốc tế và đưa mối quan hệ với các đối tác lớn đi vào chiều sâu, tạo môi trường thuận lợi để phát triển và bảo vệ đất nước. Bên cạnh đó, việc nắm chắc mục đích, ý nghĩa và kết quả của chuyến thăm là cơ sở để mỗi chúng ta nâng cao cảnh giác trước các luận điệu mang tính xuyên tạc nhằm hạ uy tín của Đảng, Nhà nước ta cũng như gây ra sự hoang mang trong quần chúng nhân dân về chuyến thăm của Tổng bí thư lần này.
Hồng Quang