Thứ Tư, 27 tháng 2, 2019

Bác bỏ những lập luận của Paulus Lê Sơn, đăng trên trang Việt Tân.



Bài viết có tiêu đề “Đúng bản chất báo chí cộng sản”, bài viết này nhắc đến bài viết trên Facebook của Kim Cúc Ngô Thị, trong bài viết của Kim Cúc Ngô Thị cho rằng việc thay đổi nhân sự ở các phòng ban của Báo Thanh Niên là một sự kiện đi vào lịch sử báo chí vì một tòa soạn “Tự cho thôi chức”.
Và trên cở sở chia sẻ của Kim Cúc Ngô Thị, Paulus Lê Sơn đã phụ họa thêm vào và cho rằng, những người bị cho thôi chức là vì họ không phải là đảng viên Đảng cộng sản, và quy kết cho rằng đảng cộng sản biến vai trò của báo chí trở thành công cụ phục vụ lợi ích cho riêng họ, biến các nhà báo trở thành bồi bút, thậm chí là những cây bút máu tanh lòng. Bên cạnh đó bài viết cũng cho rằng việc bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính dành cho phóng  viên, biên tập viên, biên tập viên cơ quan báo chí là đang muốn xiết lại hàng ngũ báo chí và biến họ thành những công cụ tuyên truyền cho chế độ.
Paulus Lê Sơn và Kim Cúc Ngô Thị thì cũng khá nổi tiếng trong giới truyền thông của đám “dân chủ” và luôn là thành viên tích cực trong việc nói xấu chế độ, nói sai sự thật và tôn vinh những kẻ phá hoại đất nước.
 Cho nên những bài viết với luận điệu áp đặt, quy chụp bôi nhọ kiểu như thế này thì không có gì xa lạ, những ngôn từ chúng viết ra với thái độ hằn học đã ăn sâu ngay từ trong tâm trí của chúng rồi.
Việc sắp xếp lại nhân sự tòa soạn, đó là công việc nội bộ, chúng ta không bàn tới nhiều, tất nhiên ai cũng hiểu điều chung nhất là muốn có được các vị trí lãnh đạo không chỉ riêng trong lĩnh vực báo chí mà ở tất cả mọi ngành nghề đó là phải có tài, tuân thủ quy tắc nghề nghiệp, công việc và phải có tâm, có tầm mới đảm đương được. Cho nên việc không được đảm nhiệm sẽ là lẽ thường bởi ai cũng biết là không hội tụ đủ 3 yếu tố “tâm, tầm, trí”. Và chúng biến điều tất nhiên đó trở thành cái vô lý và cho rằng là do không phải là Đảng viên. Thực ra thì Paulus Lê Sơn khi nhào nặn bài viết này cũng chả hiểu một chút gì về Ngành Báo chí, và cố viết theo cách nghĩ của mình là sao cho nó thật “dữ dội” tô vẽ nên hình ảnh của báo chí Việt Nam “càng méo mó thì nó càng có tiền”, cho nên kiểu “lập luận cùn” này thì chỉ luôn giành cho những nhà dân chủ giả hiệu như Paulus Lê Sơn mà thôi.
Nói thêm về nghề làm báo, tất yếu đầu tiên đó là phải có bản lĩnh chính trị, kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, phải thực sự là con người có mắt sáng, lòng trong, bút sắc; với sức ảnh hưởng rộng lớn của báo chí nếu không được đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng thì ngòi bút đó sẽ trở nên lệch lạc, thiếu tính chiến đấu, tính thuyết phục, tính định hướng…… và thực tế cho thấy có những kiểu nhà báo với “3 lạnh”, đi xe lạnh, tác nghiệp trong phòng lạnh, viết báo theo kiểu máu lạnh. Những thành phần làm báo như vậy thì tất yếu sẽ không mang lại điều gì tốt đẹp cho xã hội, cho đất nước Việt Nam này cả, mà chỉ là những kẻ yếu về bản lĩnh, non kém về trình độ, kiến thức, tri thức, đạo đức và vì đồng tiền trên hết mà thôi.
Cho nên việc bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ làm báo là điều tất yếu, cần thiết phải làm để đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, để báo chí ngày càng phục vụ nhiều lợi ích hơn cho đất nước cho dân tộc và là diễn đàn của nhân dân.
Trí Tài

Bài đấu tranh với các luận điệu chống phá quân đội



Hiện nay trên các trang mạng xã hội, nhất là những trang của Việt Tân luôn đua những thông tin xấu độc,bịa đặt, sai sự thật, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch… nhắm vào quân đội ta chúng ra rả các thông tin xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội; chia rẽ Đảng, Nhà nước đối với Quân đội và nhân dân… Theo đó, các thế lực thù địch cho rằng, quân đội phải “trung lập, đứng ngoài chính trị và đấu tranh giai cấp”(!), “không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào”(!), “chỉ hành động dưới sự điều hành của nhà nước và tuân theo pháp luật”(!); Quân đội “chỉ của quốc gia dân tộc”(!), “chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và phục vụ nhân dân”(!)… Do vậy, quân đội phải “thoát ly” chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng. Không những thế, các thế lực thù địch còn xuyên tạc, bóp méo bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Quân đội và mối quan hệ giữa Quân đội với nhân dân; rằng quân đội hiện giờ “không còn là quân đội cách mạng nữa”(!), “không còn tốt đẹp như trước”(!), “quân đội đã không còn gần gũi, gắn bó với nhân dân”(!); quân đội đã “không thực hiện đúng” nhiệm vụ của mình là bảo vệ nhân dân, “chỉ lo bảo vệ Đảng, Nhà nước”(!)… Qua đó, chúng muốn tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng để dễ bề truyền bá tư tưởng tư sản vào quân đội, phá vỡ cơ sở chính trị – xã hội tạo nên sức mạnh của quân đội, làm cho quân đội thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, mất phương hướng hành động, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu… Trong số đó, có không ít vụ việc, thông tin đã cũ, đã được xử lý nhưng lại được “làm mới” và tô vẽ, nhào nặn, bóp méo, nhằm bôi nhọ, xuyên tạc hình ảnh và phẩm chất truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Nguy hiểm hơn, các thông tin bịa đặt, xuyên tạc đó được chúng tán phát vào các thời điểm khá “nhạy cảm” như: trước mùa tuyển quân, giao nhận quân, hoặc trước các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, của quân đội,… để tạo sự chú ý của dư luận. Cùng với tính chất lan truyền nhanh, rộng của internet và mạng xã hội, nhất là với người sử dụng còn thiếu kiến thức, không phân biệt được thông tin tốt – xấu, làm cho các thông tin xuyên tạc, bịa đặt đó càng được phát tán rộng khắp. Điều này đã gây tác động tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm, gieo rắc sự hoài nghi, hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với quân đội; ảnh hưởng đến quan hệ đoàn kết quân dân; đến ý thức, trách nhiệm của người dân nói chung, của thanh niên nói riêng trong thực hiện nghĩa vụ xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Đây thực sự là thủ đoạn rất nguy hiểm mà các thế lực thù địch sử dụng nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “phi chính trị hóa” quân đội. Để ngăn chặn và hạn chế đến mức thấp nhất những thông tin xấu độc nói chung, thông tin xấu độc nhằm vào quân đội nói riêng hiện nay, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các địa phương, của mỗi cán bộ, chiến sĩ và mỗi người dân.
Trí Tài

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ CỦA TỔ CHỨC KHỦNG BỐ "VIỆT TÂN".



Trong những năm qua, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã bắt giữ và đưa ra điều tra, xét xử nhiều đối tượng liên quan đến tổ chức khủng bố “Việt Tân”. Trong số đó phải kể đến các trường hợp như Nguyễn Quốc Quân, “Ủy viên Trung ương Việt Tân” về tội “khủng bố”, tuyên án 6 tháng tù giam; đấu tranh, trục xuất Nguyễn Quốc Quân (66 tuổi, quốc tịch Mỹ); Trương Leon (66 tuổi, quốc tịch Mỹ); Mai Hữu Bảo (50 tuổi, quốc tịch Mỹ); Lương Văn Mỹ (67 tuổi, quốc tịch Mỹ); Nguyễn Thị Thanh Vân (63 tuổi, quốc tịch Pháp); Nguyễn Thị Xuân Trang (49 tuổi, quốc tịch Thụy Sỹ); Nguyễn Tấn Anh (39 tuổi); Nguyễn Văn Bé (67 tuổi, quốc tịch Úc) đều là thành viên cốt cán của tổ chức “Việt Tân”.
Trong đó đáng chú ý, đối tượng Lương Văn Mỹ được cử về nước dịp tháng 4-2016, nhằm khảo sát tuyến xâm nhập đường bộ và đường biển về Việt Nam, phát triển lực lượng, gặp gỡ số “Tự ứng cử” để kích động, chống phá bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Ngoài ra, còn một số trường hợp khác mới được đưa ra xét xử gần đây đã cho thấy bộ mặt thật của những thành viên của tổ chức “Việt Tân”. Trường hợp của Trần Thị Nga (SN 1977, trú tại thôn Đồng Phú, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) là một ví dụ. Trong thời gian đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Từ năm 2003-2008), Trần Thị Nga được “Việt Tân” tuyên truyền, móc nối, lôi kéo tham gia tổ chức với bí danh là “Sơn Na”.
Ngày 29-6-2010, theo sự chỉ đạo của “Việt Tân”, Trần Thị Nga đã tổ chức gặp mặt tại Công ty Nga Phong, các đối tượng từng đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan để họp bàn kế hoạch viết bài chống phá. Cụ thể, Trần Thị Nga đã sử dụng facebook cá nhân “Thúy Nga” thường xuyên đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết có nội dung chính trị xấu, chống phá chính quyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cổ vũ các hoạt động chống phá của các đối tượng khác. Đồng thời, lợi dụng các vấn đề phức tạp, nhạy cảm ở Việt Nam, Trần Thị Nga tích cực kêu gọi, tham gia cuộc biểu tình tại Hà Nội cùng với các đối tượng chống đối trong nước gây rối an ninh trật tự.
Với hành vi phạm tội trên, ngày 21-10-2017, Trần Thị Nga đã bị bắt về tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Ngày 25-7-2017, Trần Thị Nga bị TAND tỉnh Hà Nam tyên phạt 9 năm tù, quản chế 5 năm tại địa phương.
Một trường hợp khác là Lê Đình Lượng (SN 1965, trú tại huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), một trong những thành viên cốt cán của tổ chức “Việt Tân”. Từ năm 2011 đến thời điểm bị xử lý, Lê Đình Lượng đã có nhiều hoạt động chống đối: Tháng 4-2012, đối tượng tham gia biểu tình, gây rối an ninh trật tự tại phiên tòa xét xử Cù Huy Hà Vũ tại Hà Nội.
Lê Đình Lượng sử dụng facebook “Lỗ Ngọc” thường xuyên đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết có nội dung chính trị xấu, chống phá chính quyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ cho các hoạt động chống phá của các đối tượng khác. Ngày 24-7-2017, Cơ quan ANĐT Công an tỉnh Nghệ An đã thực hiện lệnh bắt khẩn cấp đối với Lê Đình Lượng về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Ngày 16-8-2018, Lê Đình Lượng bị TAND tỉnh Nghệ An đưa ra xét xử với mức án 20 năm tù và 5 năm quản chế tại gia.
Mới đây, nhân sự kiện Đại tướng Ngôn Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng đến thăm và kiểm tra công tác chuẩn bị tuyển quân năm 2019 tại thị xã Sơn Tây được phóng viên Trọng Phú, phóng viên báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam đưa tin với tựa đề “Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng: Quân đội không để bị bất ngờ trong mọi tình huống” thì trên trang facebook Việt Tân lại bịa đặt ra cái gọi là “Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch kêu gọi quân đội sẵn sàng chống lại nhân dân”. Đây là sự bịa đặt, dối trá với hình thức cắn xén, lồng ghép thông tin có ý đồ chính trị đen tối nhằm chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân - dân, cá - nước trong gần 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam, đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

            Như vậy, với chiến lược tuyên truyền bài bản, như cắt xén, lồng ghép thông tin, hình ảnh, xuyên tạc, bịa đặt những vụ việc không có thật về tình hình nội địa gây hiểu nhầm và tạo tâm lý bất mãn trong quần chúng nhân dân, từ đó kích động tập hợp lực lượng biểu tình chống phá chính quyền. Để “làm màu” trước ống kính ghi hình, “Việt Tân” còn chi tiền để tăng số lượng người tham gia biểu tình và dàn cảnh xô xát gây mất trật tự rồi lấy cớ vu cáo chính quyền. Ngoài ra, chúng còn tìm cách lập các trang web để chèo lái thông tin và tập trung nguồn lực tài chính nuôi dưỡng hàng trăm người chỉ làm công việc duy nhất là tô vẽ cho tên tuổi của “Việt Tân” trên các diễn đàn, trang mạng ảo. Chính vì vậy khi chúng ta đọc các thông tin trên mạng xã hội, cần phải tỉnh táo, không bình luận hay chia sẻ, like với những nội dung mà chúng ta chưa nắm chắc thông tin chính thống và những thông tin phản động. Mỗi người công dân Việt Nam hãy là một người chiến sĩ trên mặt trận phòng chống phản động trên không gian mạng./.


Văn Hoàng

Thủ đoạn “Thực hiện điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường hợp tác nhiều mặt để thâm nhập, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.




Với mục tiêu nhất quán chống phá cách mạng Việt Nam đến cùng, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang sử dụng những thủ đoạn rất thâm độc, nguy hiểm. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, để thích ứng với tình hình quốc tế và Việt Nam, họ đã tiến hành những thủ đoạn đa dạng và vì thế càng nguy hiểm hơn.
Trong đó, đáng chú ý là các thế lực thù địch tăng cường thực hiện điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường hợp tác nhiều mặt để thâm nhập, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở Việt Nam. Họ giảm tối đa và không đi sâu vào các vấn đề, lĩnh vực tạo ra sự căng thẳng trong quan hệ với Việt Nam, nhưng thông qua mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực để thâm nhập sâu hơn, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Họ tăng cường hợp tác quân sự, quốc phòng, kinh tế - thương mại, xúc tiến đầu tư có điều kiện để tác động, hướng lái, gây sức ép Việt Nam thay đổi cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo tiền đề cho sự thay đổi chế độ chính trị. Sự chuyển hướng này nhằm thực hiện kịch bản “dân chủ” ở nước ta; tác động vào chính sách ngoại giao của Việt Nam theo ý đồ của họ. Thông qua ngoại giao để tiếp cận hỗ trợ những phần tử “có tư tưởng thân phương Tây”, từ đó tạo ra những đột biến trong “tự chuyển hóa”; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại với các hình thức giao lưu, trao đổi, tiếp xúc để quảng bá hình ảnh “ngoại giao thân thiện” kiểu phương Tây; tiếp cận sâu hơn, xâm nhập ngầm bằng các thủ đoạn tình báo để “chuyển hóa” Việt Nam, cản trở các đối tác đang và sẽ đến đầu tư ở Việt Nam. Đồng thời, tìm mọi cách làm cho Việt Nam bị mất cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước lớn, kích động mâu thuẫn quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng và ASEAN; tìm mọi cách phá vỡ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, chia rẽ quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia, quan hệ đối tác chiến lược Việt - Trung, Việt - Nga,… hòng cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Trí Cường


Vạch trần bộ mặt của Việt Tân: XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI




Mới đây vào ngày 18/02 trên Fanpage phản động của Việt Tân có đăng bài viết nói xấu về Quân đội Nhân dân Việt Nam và trực tiếp là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng với tên bài viết: "Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kêu gọi Quân đội chống lại nhân dân". Nghe đến cái tên bài viết đã thấy kẻ viết bài này không hiểu gì về Quân đội chứ đừng nói đến việc bàn bạc về chính trị, đã ngu còn tỏ ra nguy hiểm. Các ông hiểu thế nào là Quân đội và Quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu chưa hiểu thì tôi xin phép được thông não cho.
Thứ nhất: Quân đội Việt Nam là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà sinh ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng chứ không phải là đội quân như các ông nói là của một nhóm người có chung tư tưởng.
Thứ hai: Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân". Quân đội của chúng tôi là Quân đội của nhân dân Việt Nam. Không phải các ông trích "Quân đội phải trung thành với Đảng" rồi phê phán. Thế cái vế sau các ông bỏ đi đâu mất rồi. Thế cái từ "nhân dân Việt Nam" các ông bỏ đi đâu mất rồi. Còn chưa kể tới việc Quân đội nhân dân Việt Nam vốn sinh ra từ nhân dân, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ. Đến bây giờ tình đoàn kết máu thịt ấy vẫn vẹn nguyên, thậm chí nhắc đến Bộ đội Việt Nam người dân Campuchia còn gọi là "đội quân nhà phật", nhân dân Việt Nam gọi bằng cái tên thân yêu là "Bộ đội Cụ Hồ", "chú Bộ đội", "anh bộ đội". Thế mà các ông lại "dám xuyên tạc" hòng chia rẽ tình đoàn kết Quân - Dân. Đó là cái tội rất lớn với đất nước, với dân tộc. 
Thứ ba: Trong bài viết của mấy ông có đề cập đến phát biểu của Bộ trưởng: "Trong bất cứ tình huống nào cũng không để rơi vào thế bị động" theo các ông là sai à. Xin thưa chẳng có gì sai cả. Trong bối cảnh hiện nay, khi có nhiều biến động phức tạp, lại thêm sự chống phá của các thế lực thù địch phản động, trong đó có cái đảng "Vịt Tần" như của các ông thì không cảnh giác không được. Các đơn vị "sẵn sàng chiến đấu cao" để không bị bị động bất ngờ là hoàn toàn đúng đắn chẳng có gì là sai cả.
Nói ra như vậy để các ông thông não chứ đừng viết theo đánh lừa bản chất, như vậy sớm hay muộn bản chất chống phá Đảng và Nhà nước ta của các ông sẽ bị nhân dân vạch trần và thất bại.
Phước Lĩnh


Vạch trần bộ mặt xuyên tạc, chống phá Quân đội của bọn Việt Tân



         
Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân là vấn đề có tính nguyên tắc của Quân đội nhân dân Việt Nam và cũng là sự kế thừa, phát huy truyền thống của dân tộc. Trong suốt hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào, quân đội ta-một đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Lòng trung thành, tận tụy ấy của quân đội ta đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi quân nhân, nuôi dưỡng phẩm chất cách mạng của họ, truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
          Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội trong và ngoài nước, trong thời gian vừa qua bọn Việt Tân rêu dao, xuyên tạc cho rằng: “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng”, là sản phẩm đặc trưng của các nước độc tài, đặc biệt là các nước đi theo mô hình cộng sản…về bản chất, đảng phái chỉ là tập hợp một nhóm người có chung tư tưởng. Cho nên, dù đảng cộng sản Việt Nam có 4 triệu đảng viên, thì họ cũng không thể là đại diện cho lợi ích tổ quốc và tuyệt đại đa số dân chúng. Đồng thời, đảng cộng sản cũng chỉ nắm quyền trong một thời gian nào đấy thôi, chứ không phải là mãi mãi. Cho nên, bắt quân đội trung thành với một đảng phái dù là một điều sai trái, không thể chấp nhận được.
Thực chất quan điểm trên là hoàn toàn sai trái cho rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ đại diện cho lợi ích của thiểu số nhân dân, dân tộc Việt Nam; quân đội nhân dân Việt Nam không nên chung thành với Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mục đích cuối cùng của các thế lực thù địch là tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ta.
Khẳng định rằng: Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội ấy không có mục tiêu chiến đấu nào khác là giành và giữ gìn độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đem lại tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho nhân dân lao động. Đó cũng là mục tiêu chính trị cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam.
          Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản đối với quân đội là một nguyên tắc cơ bản, bất di bất dịch. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta rất tự hào về quân đội anh hùng của dân tộc ta. Quân đội đó từ nhân dân mà ra, phôi thai từ trong khói lửa của cuộc đấu tranh chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tiền thân là những đội Tự vệ Đỏ; đó là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời chuẩn bị cho cao trào Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phát triển qua các cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quân đội ta luôn trung thành sắt son với Tổ quốc, với dân tộc, với nhân dân và đặc biệt với Đảng Cộng sản Việt Nam; là công cụ vũ trang, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Lòng trung thành tuyệt đối của quân đội với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa vừa là một phẩm chất cao quý của quân đội cách mạng, vừa là nguyên nhân của những chiến thắng vang dội trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữ vững độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Tá Lý

Nguyễn Văn Đài Ngựa quen đường cũ Mới đây, Nguyễn Văn Đài tiếp tục “chĩa nòng súng” của mình về phía người đứng đầu Chính phủ khi phao tin rằng: “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mắc bệnh hoang tưởng Paraphrenia“.




Trên status của Nguyễn Văn Đài cho thấy đầu óc của hắn đúng như cụm từ mà hắn ta sử dụng trong bài viết của mình là “điên rồ”, “cười ra nước mắt”. Chẳng lẽ cả Quốc hội, Chính phủ bị khùng, mất não hết nên mới bầu “người hoang tưởng” giữ chức vụ cao nhất trong chính phủ Nước cộng Hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam? Ngay từ đầu nhiệm kỳ với quyết tâm “Chính phủ Niêm chính, kiến tạo”.  Nếu Thủ tướng mắc bệnh hoang tưởng thì liệu ông ấy có gồng gánh, cáng đáng được chuyện quốc gia đại sự, chỉ đạo điều hành hoạt động đối nội và đối ngoại phức tạp, xử lý nợ xấu, vượt qua bao khó khăn để rồi kết quả tăng trưởng toàn nền kinh tế năm 2018 là 7,08%, mức cao nhất gần một thập kỷ qua không?. Nếu làm được như vậy thì nhân dân Việt Nam cũng mong mình được mắc bệnh như ông ấy trừ “Nguyễn Văn Đài”.
Mang trình độ luật sư lại có thể tưởng tượng ra những câu chuyện hoang đường, không có cơ sở và xàm xí như vậy. Phải chăng không có việc gì để làm, không còn chuyện gì để “buôn dưa lê” với cộng động mạng nữa nên Nguyễn Văn Đài bắt đầu vẽ chuyện?
Buồn thay cho Nguyễn Văn Đài, ôm mộng lớn muốn thay đổi chế độ, cải tổ đất nước, nhưng với những suy nghĩ thiển cận và hành động lố bịch, xàm xí như thời gian qua thì liệu hắn ta có thể làm được gì cho đất nước? Làm sao đất nước có thể phát triển hưng thịnh, văn minh có vị thế trên chính trường quốc tế như ngày nay khi còn tồn tại những kẻ “điên rồ” đã không làm được gì tốt đẹp cho đất nước lại tối ngày “tưởng tượng” chuyện nhảm nhí.
Đình Lý


TA CẦN NGHĨ VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO, KHI TRẦN QUANG VŨ CÔNG KÍCH, NÓI XẤU THỦ TƯỚNG NGUYỄN XUÂN PHÚC?



Liên quan việc dư luận đang bàn tán, dành sự quan tâm về vấn đề đầu tư xây dựng ngôi chùa Tam Chúc to nhất thế giới với sự kiện Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới kiểm tra công tác chuẩn bị Đại lễ Phật đản tại đây, trên trang cá nhân của Trần Quang Vũ đã móc nối 2 sự kiện cho “ra lò” bài viết “Thủ tướng suy xét kỹ trước khi làm nhé!” cùng lời lẽ nghe có vẻ nghĩ cho dân và lo cho đất nước. Nhưng thật ra thì… đây là bài viết, lối suy nghĩ mỉ mai, công kích, nói xâu cán bộ của Đảng, Nhà nước ta, mà trực tiếp là công kích Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Trước tiên, Trần Quang Vũ nói rằng “Đã có nghi ngờ xây dựng chùa chiền là mua bán và biến tướng tài nguyên quốc gia, rửa tiền ở cấp thượng đỉnh với doanh nghiệp xây chùa” thì xin ông hãy đưa ra những bằng chứng cho lời nói của mình ở trên. Vị quan chức nào móc nối với doanh nghiệp? Ngôi chùa nào là vỏ bọc, bình phong của quan chức để rửa tiền? Nói khơi khơi mà không có bất cứ một bằng chứng, giấy tờ, hình ảnh nào thì đứa con nít mới lớn cũng nói được. Hơn nữa nói như ông thì ở các nước Thái Lan, Lào, Campuchia… đều là “vương quốc” của chùa chiền đó, họ xây hàng nghìn ngôi chùa cũng để làm bình phong ư?
Thứ hai, ông Vũ cho rằng “CP trong chế độ CS lại dùng nguồn lực quốc gia và lôi kéo dân vào con đường tín ngưỡng thần thánh và từng bước mê tín dị đoan”. Xin thưa với ông là Thủ tướng hay thậm chí là cả bộ máy nhà nước đi chăng nữa thì cũng không thể nào “đủ sức” để có thể lôi kéo cả 100 triệu dân vào con đường tín ngưỡng thần thánh và từng bước mê tín dị đoan như lời ông nói đâu. Nói là vài chục hay vài trăm người thì còn có thể chứ đằng này là cả trăm triệu người lẫn đấy, Thủ tướng đâu phải là thần thánh để có thể “điều khiển” được họ? Cứ nhìn vào dòng người đổ về chùa Tam Chúc ngay cả khi chưa xây dựng xong, còn ngổn ngang hay người dân nô nức đi lễ chùa những ngày đầu năm thì ông có suy nghĩ gì? Xu hướng hiện đại cởi mở, đời sống cũng cải thiện nên dân chúng muốn hướng về tâm linh nhiều hơn, và việc biểu hiện của nó như thế nào là do nhận thức của mỗi người.
Còn việc ông đặt câu hỏi rằng “ở nước ta mỗi hành vi, lời nói của lãnh đạo cao cấp, nhân dân coi đấy là một định hướng. Vậy Thủ tướng định hướng gì trong chuyến thăm này?”. Ừ thì có định hướng đấy. Nhưng không phải là định hướng mê tín dị đoan như não trạng của ông muốn nói đâu. Mà ở đây chính là hướng người dân đến một sự kiện tôn giáo, văn hóa tốt đẹp. Nếu ông không biết thì nhắc lại cho ông nhớ là chỉ còn 3 tháng nữa là tới Đại lễ Vesak 2019 và Việt Nam là nước đăng cai tổ chức. Đối với sự kiện văn hóa tôn giáo quốc tế lớn như thế này, cần phải giúp đỡ Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức thành công. Vậy nên Thủ tướng đến trực tiếp đốc thúc các đơn vị tổ chức tuyệt đối không được chủ quan, nhất là trong việc chuẩn bị hội nghị và công tác hậu cần, để Đại lễ được diễn ra an toàn, tốt đẹp, đem lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn bè thế giới về hình ảnh, văn hóa, con người và đời sống tôn giáo Việt Nam.
Theo Trần Quang Vũ nói “Thủ tướng suy xét kỹ trước khi làm”, vậy xin hỏi ông giờ Thủ tướng phải làm gì khi mà quan tâm tới tôn giáo, tạo điều kiện cho họ phát triển thì ông nói là bao che, làm bình phong, rửa tiền, còn không thì lại các đối tượng lại rêu rao là nhà nước Việt Nam không tôn trọng tôn giáo, nhân quyền, đàn áp người dân?
Có thể thấy, thời gian qua, các đối tượng luôn bất chấp đúng sai, tìm cách để bới móc, xuyên tạc, công kích, nói xấu chế độ hòng kích động người dân mất niềm tin vào chính quyền. Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải tỉnh táo, chọn lọc thông tin để không bị dẫn dắt tin vào những câu chuyện bịa đặt, xằng bậy. Đồng thời mỗi  người dân cần có thái độ kiên quyết, có chính kiến rõ ràng, thẳng thắng để đấu tranh, loại bỏ những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, công kích, đánh bóng tên tuổi, nhen nhóm tư tưởng cá nhân, thiếu ý thức trách nhiệm trong xây dựng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ chế độ và đặc biệt thể hiện quyền dân chủ của nhân dân trong việc kiến tạo đất nước, xây dựng và giữ gìn bản sắc, văn hóa của dân tộc ta.
Quang Vũ

Bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam



QĐND Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; mang bản chất giai cấp công nhân (GCCN), có tính nhân dân và dân tộc sâu sắc.
Bản chất đó được thể hiện qua “trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; có ý chí quyết chiến quyết thắng rất cao, anh dũng chiến đấu, cần cù lao động, tận tụy công tác; thông minh sáng tạo trong hành động; đoàn kết nội bộ chặt chẽ, dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm, đoàn kết quân dân thắm thiết; đoàn kết quốc tế chí nghĩa chí tình; ham học tập, cầu tiến bộ; tích cực rèn luyện, không ngừng nâng cao bản chất cách mạng và năng lực hành động; chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, cần kiệm liêm chính trong xây dựng và chiến đấu, làm tròn nhiệm vụ, đánh thắng mọi kẻ thù”.
Bản chất và truyền thống cách mạng của QĐND Việt Nam là sự tiếp nối và phát huy truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ củng cố và phát huy, đồng thời, “thấm nhuần bản chất cách mạng kiên quyết, triệt để của GCCN mà Đảng là đội tiên phong”, trở thành một nét đặc trưng riêng có của QĐND Việt Nam.
Luận giải về bản chất, truyền thống cách mạng của QĐND Việt Nam, dân tộc ta luôn tự hảo và khẳng định:
Thứ nhất, Quân đội ta luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, bởi QĐND Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo. Đảng ta đã trang bị cho quân đội bản chất cách mạng của GCCN; vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối nghệ thuật quân sự của Đảng, của chiến tranh nhân dân vào rèn luyện quân đội. Đảng mang truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc để bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ và đem truyền thống đoàn kết nhất trí của Đảng giáo dục, tăng cường đoàn kết nội bộ quân đội, đoàn kết quân dân và đoàn kết quốc tế. Quân đội ta là “một đội quân cách mạng, một đội quân kiểu mới do Đảng ta, một Đảng mác-xít - lê-nin-nít chân chính xây dựng, lãnh đạo và giáo dục”. Do đó, cần phải “đặt quân đội dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội”. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất GCCN, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, quyết định sự trưởng thành và lớn mạnh của QĐND Việt Nam.
Biểu hiện rõ nét của lòng trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân là: Quân đội ta phải kiên quyết thực hiện thắng lợi đường lối chính trị-quân sự, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nắm vững và hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội; luôn nêu cao tinh thần kiên quyết, tích cực, chủ động tiến công địch và xây dựng mình theo đường lối, nguyên tắc của Đảng; luôn kính trọng, quý mến và giữ nghiêm kỷ luật với nhân dân, coi việc giúp đỡ nhân dân, bảo vệ nhân dân là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình… Lòng trung thành tuyệt đối của quân đội với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa vừa là một phẩm chất cao quý của quân đội cách mạng, vừa là cội nguồn sức mạnh, làm nên những chiến thắng vang dội của QĐND Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ hai, có ý chí quyết chiến quyết thắng, anh dũng chiến đấu, cần cù lao động, tận tụy công tác, thông minh sáng tạo.
Truyền thống quyết chiến quyết thắng của QĐND Việt Nam bắt nguồn từ lòng tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng và mục tiêu cách mạng cao quý, vào con đường và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, từ tinh thần cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công của GCCN kết hợp với truyền thống đấu tranh anh hùng bất khuất của dân tộc ta. Đó là sự tiếp nối, phát triển từ truyền thống đấu tranh anh hùng của dân tộc, của giai cấp, của Đảng, là sự kết tinh tinh thần yêu nước, chung đúc ý chí cách mạng kiên cường và tinh thần sáng tạo của các LLVT nhân dân.
Truyền thống quyết chiến quyết thắng của QĐND Việt Nam được thể hiện ở quyết tâm “đâu có giặc là ta cứ đi”; bất cứ nơi nào Tổ quốc cần, Quân đội ta đều có mặt. Quân đội ta phải không ngừng được rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, mưu trí và sáng tạo trong chiến đấu, tìm ra cách đánh phù hợp với điều kiện vũ khí trang bị, tổ chức chiến trường và truyền thống đánh giặc của tổ tiên; phải biết đánh giá đúng kẻ địch, tìm cách hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch để đánh địch, luôn nêu cao tinh thần mưu trí, dũng cảm và táo bạo, khiến địch bất ngờ, giành thế chủ động trên chiến trường, đẩy địch vào thế bị động, lúng túng, dẫn đến thất bại. Ý chí quyết chiến quyết thắng của QĐND Việt Nam còn thể hiện rõ trong lao động sản xuất và công tác. Thực hiện bất cứ nhiệm vụ gì, trong bất luận hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ cũng luôn dũng cảm, cần cù, tận tụy, đem hết tinh thần, sức lực, trí tuệ, tài năng, kiên quyết hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ.
Thứ ba, đoàn kết nội bộ chặt chẽ, dân chủ tốt, kỷ luật nghiêm.
“Quân đội ta luôn luôn đoàn kết chặt chẽ như keo sơn; cán bộ, chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, trên dưới một lòng, đồng cam cộng khổ, thường xuyên thực hiện dân chủ, không ngừng đề cao kỷ luật tự giác nghiêm minh, thống nhất ý chí, thống nhất hành động”. Truyền thống đoàn kết, dân chủ, kỷ luật của Quân đội ta kế thừa truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí đoàn kết, thống nhất hành động của Đảng, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Quân đội ta luôn đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, lợi ích của nhân dân và chức năng, nhiệm vụ của quân đội, trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng về chính trị và tình thương yêu giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới. Toàn quân kết thành một khối thống nhất, vững chắc. Để thực hiện được điều đó, cán bộ, chiến sĩ phải luôn chân thành giúp đỡ lẫn nhau, lấy lý tưởng, mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ cách mạng, lấy kinh nghiệm chiến đấu, công tác và cuộc sống để bồi dưỡng lẫn nhau, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.    
Cùng với tăng cường đoàn kết nội bộ là phát huy dân chủ, rèn luyện kỷ luật trong quân đội; dân chủ thể hiện mối quan hệ bình đẳng về chính trị trong QĐND Việt Nam. Trên cơ sở lấy kỷ luật làm sức mạnh của quân đội, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng phải giữ nghiêm kỷ luật. Cán bộ, chiến sĩ quân đội phải phục tùng sự lãnh đạo, chỉ huy, triệt để chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, làm tròn chức trách, nhiệm vụ của quân nhân; chấp hành nghiêm điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; kiên quyết hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, “Kỷ luật của Quân đội ta vừa nghiêm minh, vừa tự giác”.             
Thứ tư, đoàn kết quân dân gắn bó.
QĐND Việt Nam từ nhân dân mà ra, do đó Quân đội ta “luôn luôn đoàn kết khăng khít với nhân dân; toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân; dựa vào dân, được nhân dân chăm sóc, giáo dục, phối hợp cùng nhân dân chiến đấu; hết lòng bảo vệ, quý trọng và giúp đỡ nhân dân”. Truyền thống quý báu đó được hình thành ngay từ khi Quân đội ta mới ra đời và phát triển không ngừng trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành; thể hiện tình cảm quân dân “như cá với nước”.
Không chỉ chiến đấu vì dân, Quân đội ta luôn biết dựa vào dân, luôn thương yêu, quý trọng, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với nhân dân; thường xuyên chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, giúp đỡ và bảo vệ nhân dân; tiết kiệm của cải, kết hợp với tăng gia sản xuất để giảm việc đóng góp của nhân dân. Đúc kết mối quan hệ thắm thiết giữa quân đội và nhân dân: “Đoàn kết quân dân là một hình ảnh đẹp, đầy tự hào của toàn quân ta, toàn dân ta. Đó là sức mạnh to lớn của Quân đội ta. Giữ gìn và phát huy truyền thống quý báu ấy là để không ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu của quân đội, không ngừng nâng cao phẩm chất cách mạng của mỗi cán bộ, chiến sĩ ta”.
Thứ năm, đoàn kết quốc tế chí nghĩa chí tình.
Nắm vững quan điểm, chủ trương đoàn kết quốc tế “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,: Quân đội phải “coi sự nghiệp cách mạng của nhân dân nước bạn như sự nghiệp cách mạng của bản thân dân tộc mình, có sự cảm thông sâu sắc với các dân tộc và giai cấp bị áp bức bóc lột trên thế giới, thấy được sự quan hệ mật thiết giữa phong trào cách mạng các nước nói chung và các nước Đông Dương nói riêng”, đồng thời, “quyết tâm hy sinh chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế”. Toàn quân và từng cán bộ, chiến sĩ phải nêu cao nhận thức, đoàn kết quốc tế không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà đã trở thành ý thức và tình cảm sâu sắc, không những trong tư tưởng mà còn bằng hành động, bằng sự hy sinh xương máu của mình. Truyền thống đoàn kết quốc tế của QĐND Việt Nam vừa thể hiện ở quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc Việt Nam, vừa hết lòng ủng hộ phong trào cách mạng thế giới; triệt để ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt là với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia.
Thứ sáu, ham học tập, cầu tiến bộ, tích cực rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất cách mạng và năng lực hành động
“Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần học tập, cầu tiến bộ, tích cực rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu, năng lực công tác, trình độ làm chủ khoa học-kỹ thuật”. Đó là nghĩa vụ, trách nhiệm, tiêu chuẩn, thành tích của người quân nhân cách mạng. Do vậy, cán bộ, chiến sĩ quân đội phải chú trọng học tập, rèn luyện về chính trị tư tưởng và tổ chức, đường lối chính trị và quân sự của Đảng, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và cả về những kiến thức văn hóa, khoa học-kỹ thuật; đồng thời, nghiêm khắc phê phán thái độ đi ngược lại bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội ta… Đó là quá trình “phấn đấu hết sức kiên trì, bền bỉ, anh dũng và đầy sáng tạo của toàn quân ta”, để không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, trình độ chính trị tư tưởng, năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, nâng cao sức mạnh chiến đấu toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quân đội.
Thế nhưng, với mưu đồ đen tối, các thế lực thù địch ra sức chống phá, xuyên tạc, hòng “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội. Đặc biệt với những kẻ tự nhận là người “Việt” lại gắn với cái miệng luôn nói thích “Tân”, chúng coi đây là một trong ba trọng tâm chống Đảng, Nhà nước và hướng lái, chuyển hóa cách mạng Việt Nam. Kế hoạch của chúng là: lấy phá vỡ nền tảng chính trị là then chốt; chống phá về kinh tế là biện pháp cơ bản, thường xuyên, lâu dài; “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là nhiệm vụ trọng yếu. Thủ đoạn đó không mới, nhưng cực kỳ nguy hiểm, nhằm xóa nhòa bản chất giai cấp, chức năng chính trị, xã hội của lực lượng vũ trang cách mạng; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo Quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và bị vô hiệu hóa. Để đạt được mục tiêu đề ra, chúng đã và đang sử dụng mọi biện pháp hòng làm thay đổi bản chất chính trị của Quân đội và sự nghiệp xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, v.v. Chúng lập luận trơ trẽn rằng, việc tổ chức ra quân đội chỉ để bảo vệ “lợi ích dân tộc”, “lợi ích quốc gia”; rằng, quân đội phải “trung lập”, “đứng ngoài chính trị”, “không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào”. Chúng còn viện dẫn những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ để đánh giá, xuyên tạc bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, v.v. Gần đây, các thế lực thù địch tiếp tục tuyên truyền, xuyên tạc về việc Quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Thâm độc hơn, chúng tỏ vẻ thân thiện góp ý rằng “Quân đội nhân dân Việt Nam không nên thực hiện sản xuất, lao động”, mà chỉ thuần túy làm nhiệm vụ quốc phòng; “Quân đội không làm kinh tế là sự đột phá về tư duy”; mừng vì “Quân đội sẽ không làm kinh tế”; hay “đáng lẽ Quân đội phải ngừng làm kinh tế lâu rồi”, vì làm kinh tế thì “lợi ít, hại nhiều”, v.v. Những luận điệu thâm độc không có gì khác là nhằm xuyên tạc bản chất, truyền thống, chức năng của Quân đội, tách Quân đội khỏi sự gắn bó máu thịt với nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời hạ thấp uy tín của Quân đội trong đời sống xã hội, v.v.
Để tiếp tục xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, việc tiếp tục giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó không chỉ là trách nhiệm của riêng quân đội mà còn là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, của cả hệ thống chính trị, trong đó QĐND Việt Nam là nòng cốt. Bản chất và truyền thống cách mạng là cội nguồn sức mạnh chiến đấu, là tài sản vô giá của quân đội trong công cuộc xây dựng và chiến đấu trước đây, hiện nay cũng như mãi mãi sau này. Giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của quân đội, chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh phi thường, cổ vũ, thúc đẩy Quân đội ta tiến lên giành thắng lợi mới trong giai đoạn cách mạng mới.
Việc phát huy truyền thống quý báu đó vẫn là nhân tố quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng và chiến đấu của Quân đội ta thành công và thắng lợi. Do đó, bất luận trong hoàn cảnh, thời gian nào, cán bộ, chiến sĩ quân đội cũng phải đem hết sức lực và trí tuệ của mình góp phần vào việc xây đắp nên truyền thống vẻ vang của quân đội, có trách nhiệm kế thừa, phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của QĐND Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta “phải biến lòng tin, biến niềm tin tự hào về bản chất và truyền thống của Quân đội ta thành hành động cách mạng một cách tích cực nhất và anh dũng nhất”.
Huy Hoàng

Nghệ thuật lừa bịp cộng đồng



Nhìn lại những năm đầu thập niên 80 khi tinh thần “chống Cộng” trong cộng đồng người Việt lưu vong lên cao, Hoàng Cơ Minh, kẻ “khai sáng” Việt Tân cùng phe nhóm của y đã chớp thời cơ và sử dụng những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp để khuếch trương thanh thế và dần công khai “moi” hàng triệu USD từ cộng đồng người Việt hải ngoại.
Bình mới rượu cũ, một lần nữa Việt Tân lại tự tô vẽ, thổi phồng bản chất vốn có của một tổ chức khủng bố thành một “đảng phái chính trị” rồi liên tục ru ngủ cộng đồng bằng đủ các chiêu trò lừa gạt, không ngớt rêu rao về số lượng hàng nghìn đảng viên trong nước và hàng chục nghìn ở hải ngoại.
Để minh chứng cho cái gọi là “tiếng nói của Việt Tân quốc nội”, những tên cốt cán, cầm đầu tại Mỹ đã tìm cách đưa người về nước móc nối, trả tiền cho một số người rồi xúi giục họ đọc thuộc, phát biểu trước ống kính về những nội dung đã được chuẩn bị sẵn. Bên cạnh đó, Việt Tân đã móc nối, lừa gạt một số người nhẹ dạ cả tin trong nước tham gia “tổ chức” với những lời hứa bay bổng về cuộc sống sung túc hay tương lai sáng lạng ở phương trời Tây...
Với chiến lược tuyên truyền bài bản, như cắt xén, lồng ghép thông tin, hình ảnh, xuyên tạc, bịa đặt những vụ việc không có thật về tình hình nội địa gây hiểu nhầm và tạo tâm lý bất mãn trong quần chúng nhân dân, từ đó kích động tập hợp lực lượng biểu tình chống phá chính quyền, với mục đích “làm màu”.
Ngoài ra, chúng còn tìm cách lập các trang web để chèo lái thông tin và tập trung nguồn lực tài chính nuôi dưỡng hàng trăm người chỉ làm công việc duy nhất là tô vẽ cho tên tuổi của “Việt Tân” trên các diễn đàn, trang mạng ảo.
Minh Thành

ĐẰNG SAU NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐÒI ĐA ĐẢNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LÀ GÌ?



Đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình” và tuyên truyền phá hoại cách mạng Việt Nam, trong những năm qua, các thế lực thù địch tập trung tung ra nhiều luận điệu đòi thực hiện đa đảng đối lập. Chúng phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam không chịu đổi mới về chính trị, “không chịu thực hiện đa nguyên chính trị, giữ độc quyền lãnh đạo”; rằng ở Việt Nam “không có đa nguyên, đa đảng thì không bao giờ có dân chủ”. Chúng quy kết: “Độc tài, Đảng trị là cái gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại” và khuyên rằng “Đảng chỉ nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối”. Các thế lực thù địch đòi chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp, xoá bỏ Điều 4, hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.
Không chỉ dừng lại với những luận điệu trên, chúng còn thống kê, tổng hợp lại toàn bộ những sai lầm, thiếu sót cả về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, quản lý xã hội để minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”. Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái biến chất, tham ô, tham nhũng, kích động nhằm tạo sự phân hóa sâu sắc trong Đảng, làm suy yếu sức mạnh khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với nhân dân. Chúng hô hào, khuyến khích cải tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trắng trợn hơn, chúng đã ra sức xây dựng, nhen nhóm các tổ chức đảng đối lập phản động, như cái gọi là “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”, “Đảng Dân chủ tự do Thiên chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”...
Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền, hoạt động chống phá ấy, đều không ngoài mục đích hàng đầu và quan trọng nhất là làm suy yếu, đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đó là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
Dựa trên cơ sở khoa học cụ thể cả về lý luận và thực tiễn, cho phép chúng ta khẳng định rứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa đảng!
Trước hết, dưới góc độ lý luận: Trong lịch sử, chế độ đa nguyên, đa đảng đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Đây là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng tiến bộ, tích cực đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do, dân chủ tư sản. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ nghĩa đa nguyên - một trường phái triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Chiristian Woiff (1679-1754) đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa đa nguyên phủ định tính thống nhất của thế giới, cường điệu cái riêng; phủ nhận sự phân chia xã hội thành giai cấp, phủ nhận đấu tranh giai cấp; chủ trương xây dựng một cơ chế quản lý xã hội theo nguyên tắc đa lực lượng, đa đảng phái và các tổ chức đảng phái này quan hệ với nhau theo nguyên tắc hiệp thương. Vì vậy, đây là một học thuyết phi mácxít. Nếu áp dụng quan điểm này vào chủ nghĩa xã hội sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân thành một tổ chức tầm thường và nguy cơ phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như thế, chủ nghĩa đa nguyên là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan phi khoa học, trái với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ vẫn mãi xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Chính điều đó đã, đang và sẽ mãi bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng chính trị duy nhất tồn tại, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Do vậy, ở Việt Nam không cần sự tồn tại của chủ nghĩa đa nguyên - một thứ cơ sở lý luận cho việc thực hiện chế độ đa đảng.
Thứ hai, trên phương diện thực tiễn: Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử; là ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Điều này được lịch sử minh chứng rõ ràng. Vượt lên trên tất cả những hạn chế về đường hướng, phương pháp của những phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đã hướng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, do Nguyễn Ái Quốc truyền bá và phát triển mạnh mẽ. Đáp ứng đòi hỏi đó, trải qua quá trình được chuẩn bị chín muồi về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và đã khẳng định lấy “chủ nghĩa Lênin làm cốt”. Đây là một tất yếu lịch sử và cũng từ đây, chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới cho lịch sử dân tộc.
Trong thời kỳ 1930 - 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không cần thêm bất cứ một tổ chức, đảng phái chính trị nào khác lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của công cuộc đấu tranh giành chính quyền mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên chủ nghĩa xã hội - đó chính là công lao to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm 1945-1946, do bối cảnh tình hình chính trị diễn biến phức tạp, ở Việt Nam, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại một số đảng phái đối lập như Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội..., nhưng trên thực tế, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Các đảng phái, tổ chức đối lập thời kỳ này đã không vì lợi ích quốc gia, dân tộc mà âm mưu phá hoại cách mạng, xoá bỏ chính quyền cách mạng non trẻ, nên bị chính lịch sử và nhân dân ta loại bỏ.
Trong cuộc trường chinh 30 năm (1945-1975) kháng chiến giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một lần nữa lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ này, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tồn tại hai đảng khác là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đảng này chưa bao giờ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đều ủng hộ, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau này hoàn toàn tự nguyện giải tán. Cũng trong thời gian này, còn có những đảng phái thân Pháp, thân Mỹ đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc và lợi ích của nhân dân lao động, nên cũng đã bị chính nhân dân ta đấu tranh loại bỏ.
Từ sau năm 1975 đến nay, nền chính trị nhất nguyên, với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được củng cố, phát triển toàn diện, đã một lần nữa khẳng định tính tất yếu khách quan: Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không cần sự tồn tại của nhiều đảng. Với bản lĩnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, vượt qua khủng hoảng gay gắt về kinh tế - xã hội, trở thành một quốc gia đang phát triển hết sức năng động. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện; dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng; quốc phòng, an ninh được giữ vững; văn hoá, xã hội có nhiều bước phát triển; vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, đạt được những tiêu chí cao nhất trong hoạt động chính trị của một đảng cầm quyền (dù là chế độ đa đảng hay một đảng đều phải hướng tới vấn đề cốt tử nhất), đó là: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, văn hoá, xã hội phát triển bền vững, an sinh xã hội được bảo đảm. Chính thực tiễn này đã khẳng định, ở Việt Nam hiện nay không cần đa đảng và cũng đúng với nhận định của đồng chí Nguyễn Phú Trọng: “Ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa đảng, ít nhất cho đến bây giờ”.
Một trong những luận điệu tuyên truyền được các thế lực thù địch tập trung tung hô, cổ suý nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”. Họ cho rằng: “Đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự”; “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện “đa nguyên, đa đảng”... Chúng ta đều biết rằng, dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Dân chủ tuỳ thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Về điều này, C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế xã hội đó quyết định”. Trên thực tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không ít những nước đa đảng, nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, cũng có những nước chỉ một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ vẫn được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng là: đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển, đúng như đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”.
Cũng từ thực tiễn lịch sử đã cho thấy, một điều hết sức đau xót đối với cách mạng thế giới, đó là sự đổ vỡ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên bang Xôviết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào thập niên cuối của thế kỷ XX. Đặc biệt, ở Liên Xô, dưới tác động bởi những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, cùng với sự “phản bội” của một số người trong Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đứng đầu là M.Gorbachev đã đưa tới tại Đại hội bất thường của các đại biểu nhân dân ngày 15-3-1990, quyết định xoá bỏ Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, hiến định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bắt đầu từ điểm mốc này, đã hình thành chế độ đa đảng ở Liên Xô, với sự ra đời của vô số các tổ chức, đảng phái chính trị, đối lập cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, để rồi đưa tới một kết cục bi thảm: Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trong hơn 70 năm hoàn toàn sụp đổ vào tháng 8-1991. Chính bài học thực tiễn đau xót này chỉ ra rằng, nếu hiện nay Việt Nam chấp nhận đa nguyên, đa đảng thì kết cục chắc chắn sẽ không khác gì như Liên Xô trước đây.
Cũng cần phải làm rõ hơn, các lập luận của những người muốn thực hiện đa đảng ở Việt Nam thường lấy “thực tiễn” ở các nước tư bản để minh chứng, dẫn tới một số người do thiếu hiểu biết nên đã ít nhiều tin vào những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, mà lầm tưởng rằng cứ nhiều đảng cạnh tranh thì sẽ dân chủ hơn, xã hội phát triển hơn.
Hãy nhìn sang một số nước tư bản hiện nay, nhất là nước Mỹ với sự tồn tại của 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà) thay nhau cầm quyền. Tuy bề ngoài là chế độ đa đảng đối lập, nhưng xét về bản chất chỉ là một đảng - đảng của giai cấp tư sản. Vì thế, dù Đảng Dân chủ hay Đảng Cộng hoà nắm quyền, cũng đều là đảng của giai cấp tư sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản; dân chủ ở Mỹ không gì khác là nền dân chủ tư sản, nền dân chủ chỉ dành cho một bộ phận thiểu số, một số ít người trong xã hội. Điều này cũng dễ hiểu tại sao ở Mỹ, bên cạnh “một xã hội” với những người có cuộc sống xa hoa, hào nhoáng thì vẫn còn tồn tại “một xã hội” hoàn toàn khác hẳn, gồm hàng chục triệu người phải sống trong sự bất công, thất nghiệp, đói nghèo, bệnh tật, không có quyền dân chủ... Chính người Mỹ, Paul Mishler - Giáo sư trường Đại học bang Indiana đã chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng này: Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học,v.v.. đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra; nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là Đảng Cộng hoà hay Dân chủ(4).
Như vậy, thực chất luận điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mang nặng tính chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. Từ đó, có thể gây nên sự mơ hồ, lẫn lộn, dẫn tới sự dao động về tư tưởng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam; gây nên sự phân tâm trong xã hội; làm suy giảm và mất dần niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc xoá bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy cơ gây nên những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc... Từ đó, chắc chắn hậu quả đối với đất nước sẽ vô cùng lớn, chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ đứng trước nguy cơ bị sụp đổ, thành quả cách mạng bao nhiêu năm có được sẽ tan vỡ; người dân không những không được dân chủ, mà xã hội cũng rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, không phát triển được.
Bách huyên