Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại
xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc
gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch
văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên, chỉ với những tài liệu chính sử còn
lại đến nay cũng đủ để chứng minh người Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất
lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán
cũng như luật pháp quốc tế về việc xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo đá san
hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông. Hiện hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức
tạp giữa một số nước ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối
với lãnh thổ, pháp luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là
nguyên tắc chiếm hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự,
liên tục và hòa bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán
quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên
thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho
thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng trăm
năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã
thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc
chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực
thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên
tục và hòa bình.
Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc dù
như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt
Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính
sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên
Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.
Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ
Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính
Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn
(1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát
Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các
quần đảo này.
Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của
nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền
Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai
quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần
nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên
gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng...
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần
đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn lậu, cho
phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra nghiên cứu
hải dương, địa chất, sinh vật... Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến
Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra
quần đảo Hoàng Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân trú đóng ở các
đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố trong
Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26-7-1933. Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra
Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo
Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị
đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân
Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho
quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ) có một đề nghị bổ sung bản dự
thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận,
3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu
phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời
của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự
phản đối hay bảo lưu của nước nào.
Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai
quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất
liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng. Từ những năm 50 của
thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn.
Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève
năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía đông của quần
đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền VNCH đã kịch liệt phản đối. Năm 1959
quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa.
Quân đội VNCH đã phát hiện ngăn chặn và bắt giữ 82 "ngư dân” Trung Quốc.
Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH tiếp tục
quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc dùng không quân, hải quân chiếm
luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền VNCH và Chính phủ Cách
mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã kịch liệt phản đối hành động xâm
lược này của Trung Quốc. Năm 1975, chính quyền VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội
Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầy đủ các đảo do quân đội VNCH cai quản trên Biển
Đông. Nhà nước Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của
người Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản
hành chính nhà nước thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa
cũng như hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các quần đảo này. Một sự thật
hiển nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện nào của Trung
Quốc ở quần đảo Trường Sa. Ngày 14-3-1988, Trung Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm
đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh sáng
của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để
khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng quy
chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ quyền chuyên
biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay tuyên bố
minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực hay không
đều bất hợp pháp và vô hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa
chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle) chỉ cách lục địa Việt
Nam 160 hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa của Việt Nam
được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982. Về mặt địa chất, các nghiên
cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một thành phần của Việt Nam. Về
địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển
nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa
chất và địa hình đáy biển các đảo Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa
Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa
(Spratly) chỉ cách đất liền Việt Nam từ 150 đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục
địa của Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét