Theo thông lệ, một quốc gia bị Hoa Kỳ cáo buộc
thao túng tiền tệ nếu thỏa mãn các tiêu chí về thặng dư thương mại hàng hóa
song phương với Hoa Kỳ ít nhất 20 tỷ USD, thặng dư cán cân vãng lai tương đương
ít nhất 2% GDP; và can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể
hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng
với tổng lượng ngoại tệ mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong giai đoạn 12
tháng.
Xét cả về tiêu chí nêu trên, cũng như thực tế
kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam nhiều năm qua, có thể khẳng
định: Việt Nam không thao túng tiền tệ.
Thứ nhất, Việt Nam không chủ trương phá giá
tiền tệ, trong cả các tuyên bố chính thức, cũng như trong chỉ đạo điều hành
thực tế.
Những năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách
tỷ giá trung tâm trong khuôn khổ chính sách tiền tệ chung với mục tiêu nhất
quán là kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, chứ không nhằm tạo lợi thế
cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng. Tỉ giá trung tâm VND/USD cuối
năm thường không vượt quá 1,5-2 % so với đầu năm, bất chấp những biến động mạnh
mẽ tỷ giá nhiều đồng tiền khu vực và quốc tế, thậm chí ngay cả đồng USD.
Việt Nam không có động lực phá giá tiền tệ
nhằm tạo lợi thế xuất khẩu, bởi xuất khẩu và xuất siêu chủ yếu do các công ty
FDI ở Việt Nam là động lực và hưởng lợi chính, trong khi cộng đồng DN trong
nước thường nhập siêu.
Hơn nữa, Việt Nam cũng không có lợi khi phá
giá đồng tiền do phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và nợ chính
phủ cao.
Thứ hai, Việt Nam không can thiệp một chiều
vào thị trường ngoại hối.
Cần khẳng định, hoạt động mua ngoại tệ của
Ngân hàng Nhà nước thời gian qua về mặt bản chất là quá trình chuyển đổi ngoại
tệ sang tiền VND từ các nhà đầu tư, xuất khẩu và người nhận kiều hối, để bảo
đảm người có ngoại tệ không dùng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán trong
nước. Hoạt động này theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, cũng phù hợp
thông lệ như nhiều nước khác.
Đồng thời, việc NHNN mua ngoại tệ còn nhằm bảo
đảm hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung
ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời củng cố dự trữ
ngoại hối Nhà nước vốn ở mức thấp (hiện chỉ đáp ứng khoảng 3,5 tháng nhập khẩu)
so với các nước trong khu vực, cũng như thấp so với các khuyến cáo và thông lệ
chung trên thế giới (cần đáp ứng khoảng 5 tháng nhập khẩu) về mức dự trữ ngoại
hối so với chi phí cho số tuần nhập khẩu của Việt Nam, để tăng cường an ninh
tài chính tiền tệ quốc gia. Từ góc độ kiểm soát khủng hoảng, việc tăng tích trữ
ngoại hối thông qua hoạt động thu mua USD - đồng tiền thống trị trong dự trữ và
thanh toán quốc tế - của Việt Nam là một động thái phòng ngừa khủng hoảng điển
hình trong điều hành chính sách tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào.
Việc cho rằng Việt Nam đã mua ngoại hối nhằm
định ra giá trị tiền đồng dưới giá trị thật cũng không có căn cứ thực tế, nhìn
từ góc độ mức ngang giá tiền tệ của VND so với USD. Vì tất cả tiền tệ các nước
trên thế giới hiện nay đều là tiền giấy, không còn bản vị vàng, nên mức ngang
giá tiền tệ này phụ thuộc chủ yếu vào mức chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam với
Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, lạm phát bình quân của Việt Nam là 4% trong
khi lạm phát của Hoa Kỳ chưa đến 2%, việc tiền đồng mất giá 1-1,5% là bình thường.
Nói cách khác, việc Ngân hàng Nhà nước mua vào ngoại tệ suy cho cùng là thực
hiện chức năng chuyển hoá các đồng ngoại tệ để giúp người dân tại lãnh thổ Việt
Nam có thể dùng tiền đồng, tức việc mua vào này là bắt buộc.
Hơn nữa, Việt Nam không chỉ mua vào ngoại tệ
một chiều như cáo buộc, mà trên thực tế, khi cung cầu ngoại tệ thuận lợi, Ngân
hàng Nhà nước chỉ mua vào nếu thị trường dư ngoại tệ; đồng thời, Ngân hàng Nhà
nước cũng luôn chủ động bán ra để ổn định tỷ giá VND/USD và trạng thái kinh tế
vĩ mô.
Hơn nữa, thặng dư cán cân vãng lai (bao gồm
cán cân thương mại và các khoản chuyển tiền, nhất là kiều hối) ở Việt Nam
thường chủ yếu do nhận kiều hối từ nước ngoài về.
Đây là những khoản người Việt Nam ở nước ngoài
chuyển về để trợ cấp cho người thân trong nước. Kiều hối chảy về là yếu tố
khách quan, không phải vì tỷ giá cao hay thấp. Hơn nữa, Việt Nam đã nhiều năm
nay hạ mức gửi tiền USD của cả cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp bằng 0%, nên tỷ
giá không phải là yếu tố làm cán cân vãng lai thặng dư vượt quá tiêu chí của
Hoa Kỳ quy định là 2% GDP. Nếu loại trừ kiều hối chuyển về hàng năm, cán cân
vãng lai của Việt Nam còn thâm hụt hoặc thặng dư không lớn.
Thứ ba, thặng dư thương mại song phương với
Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của hàng loạt yếu tố liên quan
tới các đặc thù của nền kinh tế Việt Nam.
Xuất siêu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ là do
tương quan cơ cấu kinh tế đặc thù giữa hai nước và Việt Nam đã khai thác thành
công khoảng trống trong nhu cầu tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ để đẩy mạnh xuất
khẩu, ngày càng gia tăng khả năng đáp ứng cho thị trường tiêu thụ của Hoa Kỳ mà
thôi.
Dữ liệu của Bộ Tài chính Hoa Kỳ cho thấy,
thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ đã tăng mạnh trong 4 năm qua: từ
38,3 tỷ USD năm 2017, tăng lên 39,4 tỷ USD năm 2018; 55,7 tỷ USD năm 2019 và
hướng đến đà kỷ lục 65 tỷ USD trong năm 2020.
Theo số liệu thống kê trong Cơ sở Thống kê dữ
liệu Thương mại của Cơ quan Thống kê Liên Hợp quốc (UNCOMTRADE), tổng trị giá
xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ trong năm 2017 đạt 1.784 tỷ USD ra thị trường thế
giới, trong đó Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa lớn thứ 31 của Hoa Kỳ, chiếm
0,5% trong tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ. Cũng theo nguồn số liệu
này, trong năm 2017, Hoa Kỳ nhập khẩu hàng hóa trị giá lên đến 2.407 tỷ USD từ
tất cả đối tác thương mại, trong đó hàng hóa từ Việt Nam xếp vị trí thứ 12,
chiếm tỉ trọng 2% trong tổng trị giá nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho
thấy, trong 25 năm qua, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Hoa Kỳ đã tăng
gấp 168 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 (xuất khẩu Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt
169,7 triệu USD; nhập khẩu đạt 130,4 triệu USD), tăng lên gần 76 tỷ USD năm
2019. Trong chín tháng năm 2020, dù chịu tác động tiêu cực của dịch COVID-19,
kim ngạch thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ vẫn đạt hơn 65 tỷ USD, tăng
gần 18% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 55 tỷ
USD; nhập khẩu từ Hoa Kỳ đạt hơn 10 tỷ USD.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang
Hoa Kỳ, theo Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, kể từ khi Hiệp định thương mại Việt
Nam-Hoa Kỳ được ký kết vào năm 2000, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã
thay đổi đáng kể. Nếu trước đây, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ các nhóm
hàng như: Dệt may, da giày… thì nay đã có thêm nhóm hàng nông-thủy-hải sản. Mặc
dù vậy, Việt Nam vẫn có nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng mà Hoa Kỳ có nguồn
cung dồi dào như: Các loại máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị hàng
không, viễn thông và nông sản nguyên liệu… Như vậy, rõ ràng cơ cấu kinh tế của
hai nước là bổ sung cho nhau, chứ không cạnh tranh trực tiếp, nên các dòng hàng
xuất-nhập giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mang tính thị trường cao.
Sự tăng vọt thặng dư thương mại với Hoa Kỳ năm
2020 là do Việt Nam khống chế dịch COVID-19 thành công hơn Hoa Kỳ. Các hoạt
động kinh tế nội địa của Việt Nam diễn ra gần như bình thường trong suốt cả
năm. Hơn nữa, Việt Nam vẫn duy trì hoạt động xuất khẩu phục vụ các thị trường
quốc tế, trong đó có Hoa Kỳ.
Như vậy, không thể biến sự thành công nổi trội
trong phòng chống dịch COVID-19 cùng những nỗ lực của Việt Nam trong hỗ trợ các
quốc gia khác ứng phó với dịch bệnh trở thành lý do ghép Việt Nam vào cáo buộc
quốc gia thao túng tiền tệ…
Đáng chú ý, dù có xu hướng tăng dần xuất siêu
hàng hóa, song chưa có năm nào Việt Nam xuất siêu dịch vụ. Thực tế, Việt Nam
luôn nhập siêu dịch vụ từ Hoa Kỳ do những lợi thế cạnh tranh của các dịch vụ
thường nghiêng về Hoa Kỳ, bất chấp tỷ giá VND và USD biến động ra sao.
Trong quá trình hợp tác, Chính phủ và cộng
đồng doanh nghiệp hai nước đã nỗ lực phối hợp, tập trung giải quyết kịp thời và
hiệu quả vấn đề thương mại ưu tiên, bao gồm việc mở cửa thị trường cho nông
sản, hàng công nghiệp, hàng hóa và dịch vụ công nghệ thông tin của nhau, kiến
tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy ký kết nhiều dự án, hợp
đồng thương mại lớn. Hai nước cũng đang triển khai hiệu quả hoạt động hợp tác
thông qua cơ chế đối thoại của Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA)
trên tinh thần hợp tác, xây dựng, công bằng, đáp ứng lợi ích chính đáng của mỗi
bên. Đây là lý do kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước liên tục tăng
trưởng với tốc độ ấn tượng trong suốt 25 năm qua.
Do đó, việc Bộ Tài chính Hoa Kỳ xác định Việt
Nam thao túng tiền tệ là không hợp lý và bất kỳ hình thức trừng phạt nào đều
không có lợi cho nhân dân và doanh nghiệp hai nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét