1. ANH HÙNG LLVTND, GIU SE ĐỖ VĂN CHIẾN
- NGƯỜI ANH HÙNG CỦA "TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH"
Giu se Đỗ Văn Chiến sinh ra tại giáo họ
Thánh Giu-se, giáo xứ Liên Phú (Hải Đông, Hải Hậu, Nam Định). Tháng 9/1966, khi
vợ anh mang bầu đứa con đầu lòng, sắp đến ngày ở cữ thì anh lên đường tòng
quân. Anh được huấn luyện cấp tốc rồi được điều thẳng sang nước bạn Lào, làm
công tác vận chuyển quân lương vào giải phóng miền Nam.
Nơi anh vận tải là trọng điểm máu lửa
Seng Phan (tỉnh Khăm Muộn), điểm yết hầu vận tải quân lương của bộ đội ta. Nắm
rõ điều đó, địch ném bom không ngớt cả ngày lẫn đêm: Người, xe, đạn dược, lương
thực... của bộ đội ta gặp muôn vàn khó khăn, nguy hiểm!
Nhưng người thanh niên này kiên cường
liên tục trong 3 năm, không một đêm nào vận tải dưới hai chuyến, đưa hàng đi
đến nơi về đến chốn. Tháng cao điểm, anh em bị thương nhiều, anh tự nguyện: Một
người làm việc bằng ba, vận tải đến 32 chuyến/tháng...
Ngày 22/12/1969, anh được đón nhận danh
hiệu cao quý: Anh hùng LLVTND. Tiểu đoàn anh được mệnh danh là "Tiểu đoàn
Đại bàng xanh", cá nhân anh được mệnh danh "Con chim đầu đàn của Tiểu
đoàn Đại bàng xanh, chuyên vượt bão lửa Seng Phan". Nhờ những chiến công
đó, anh đã vinh dự được cử sang Trường Thanh niên (Liên Xô) học tập.
Về nước, trải qua các chức vụ từ trung
đội, rồi lên đến Trưởng ban Thanh niên - Tổng cục Hậu cần, QĐND, ở đâu anh vẫn
gương mẫu phấn đấu miệt mài. Sau 27 năm lên tục cống hiến cho quân đội, Anh hùng
LLVTND Đỗ Văn Chiến đã về nghỉ hưu và mang trên vai quân hàm đại tá... Rồi ông
được giới thiệu tham gia giữ chức Phó Chủ tịch Thường trực UBĐKCGVN; Ủy viên TW
Hội CCB Việt Nam khóa II và III...
2. PHÊ-RÔ NGUYỄN QUANG HẠNH
Tháng 5-1965, Phê-rô Nguyễn Quang Hạnh,
quê ở giáo họ Nam Đường, giáo xứ Hai Giáp, Bùi Chu (thuộc xã Hải Anh, huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định) khoác áo lính vào chiến trường. Năm đó, Nguyễn Quang Hạnh
bước sang tuổi 23, để lại hậu phương đứa con trai đầu lòng còn đỏ hỏn, đôi bên
cha mẹ đã đều bước sang tuổi thất thập... cho người vợ gầy yếu trông nom.
Sau 5 năm, khi anh đang đau đứt lòng
thương xót đồng đội cùng Mặt trận 559 hằng ngày ngã xuống dưới mưa bom bão đạn
của quân thù thì lại hay tin, đứa con duy nhất ở hậu phương, do thiếu sự chở
che chăm sóc của anh đã... không còn!
"...Đau thương, dồn nén đau
thương!", Phê-rô Nguyễn Quang Hạnh kể với tôi về những năm tháng binh lửa,
bỗng thấy ông ngoảnh mặt sang một bên, đưa tay lên thấm thấm nước mắt, rồi
ngẩng đầu lên kể tiếp với giọng mạnh mẽ: "Tôi còn nhớ như in những ngày
ấy, tôi đeo lon thiếu uý mới toanh, cấp trên giao giữ chức Đại đội trưởng Đại
đội 1, Tiểu đoàn 59, Binh trạm 35. Lính chuyên vận tải hàng, chi viện cho chiến
trường miền Nam, nhưng địch phát hiện chặn đánh, mỗi giờ chúng rải xuống không
biết bao nhiêu bom.
...Một ngày lịch sử đã đến, hôm ấy, lệnh
xuất quân của người chỉ huy vang lên: "Tiến!", ai nấy đều cầm chặt
vô-lăng. Đoàn chúng tôi rời vị trí chưa được bao xa, thì cả đoàn đều phanh khự
lại, chiếc xe đầu đoàn trúng bom, bùng cháy. Lúc đó, tôi đang lái chiếc xe đi
thứ ba, lập tức nhảy ra khỏi xe, chạy lên chiếc xe đang cháy, lôi đồng chí lái
xe đã đuối sức ra khỏi xe, nói như ra lệnh: "Xuống lái xe thứ 3!".
Và tôi liền lái chiếc xe cháy chạy theo
hướng khác, tạo mục tiêu giả cho địch nhầm tưởng bắn theo! Càng chạy thì gạo
trên xe càng bốc cháy thành những vệt khói ngoằn ngoèo... địch cho rằng đoàn xe
của bộ đội ta vẫn còn đang nối đuôi nhau chạy, chúng lại càng giội bom và bắn
rốc-két xuống những vệt khói... Khi địch còn đang mắc mẹo của tôi thì mũi kia,
đoàn xe của ta đã băng qua khỏi cánh rừng già của huyện Bố Trạch thoát nạn.
Nhờ những mẹo đó mà chúng tôi đã bảo
toàn được đạn dược, đưa hàng tới đích; cá nhân tôi được Đảng, Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND", ông Phê-rô Nguyễn Quang Hạnh nay xúc động
nhớ lại
3. PHÊ RÔ NGUYỄN VIẾT HỒNG
Cách nay 40 năm, vào mùa xuân năm 1968,
tại giáo xứ Giáp Hạ, nay là giáo xứ Châu Thành, giáo phận Vinh (thuộc Thạch
Trung, Thạch Hà, Hà Tĩnh) có người thanh niên Công giáo là Phê rô Nguyễn Viết
Hồng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người gầy nhom, thấp bé tình nguyện lên đường nhập
ngũ. Sau ba tháng vừa hành quân vừa huấn luyện, anh được biên chế về làm Tiểu
đội phó phụ trách hậu cần tại đơn vị Công binh thuộc Binh đoàn 559. Nhiệm vụ
của các anh là cảm tử rà phá hàng tấn bom rơi mỗi ngày trên đường Trường Sơn
giúp cho xe bộ đội ta qua.
Đế quốc Mỹ trút xuống khúc ruột miền
Trung mỗi ngày hàng ngàn tấn bom đủ loại hòng chặn đứng sự chi viện của miền
Bắc cho chiến trường miền Nam. Quái ác thay, trong số hỗn hợp bom rơi ấy, kẻ
thù thâm độc luôn ném kèm bom khoan, một mặt chúng khoan phá con đường huyết
mạch chiến dịch, một mặt chúng khoan hố để đổ các loại bom khác có sức công phá
khủng khiếp xuống lòng đất đợi xe ta qua, hay đợi bộ đội ta rà phá bom mìn chạm
nhẹ là... nổ.
Đối mặt giữa cái sống cái chết trong tình hình ấy, người thanh niên Nguyễn Viết Hồng không hề quản ngại, anh mưu trí dũng cảm, sẵn sàng quên mình phục vụ đồng đội, tốp này ngã xuống lại đến tốp sau...!
Đối mặt giữa cái sống cái chết trong tình hình ấy, người thanh niên Nguyễn Viết Hồng không hề quản ngại, anh mưu trí dũng cảm, sẵn sàng quên mình phục vụ đồng đội, tốp này ngã xuống lại đến tốp sau...!
Thấy đồng đội mình hằng ngày, hằng giờ
bị thương, ngã xuống nhiều quá, là một Tiểu đội phó phụ trách hậu cần, anh trăn
trở và nghĩ ra được cách hạn chế sát thương đồng đội. Cách làm của anh thật đơn
giản mà bấy lâu chưa ai nghĩ ra: Anh dùng rơm, rạ kết thành bộ áo giáp mặc
trong lúc rà phá bom mìn, cách làm này đã giảm thiểu đáng kể về thiệt hại sinh
mạng cũng như sát thương cho cán bộ, chiến sỹ các đơn vị Công binh trong Binh
đoàn 559.
Từ sáng kiến trên và cùng với những
chiến công khác, đến đầu năm 1973, Nguyễn Viết Hùng đã được phong tặng danh
hiệu Anh hùng LLVTND; Đảng bộ chính quyền và nhân dân xã Thạch Trung cũng quyết
định chọn đặt tên con đường trục chính của xã thành đường tên anh, đường
"Anh hùng Nguyễn Viết Hồng"... Kể từ đó, như một nguồn cổ vũ kỳ diệu
đối với thanh niên địa phương lớp lớp tình nguyện lên đường!
4. ANH HÙNG TRẦN LÂM
Anh hùng Trần Lâm sinh năm 1952, tại
giáo xứ Tam Tổng, giáo phận xứ Thanh. Tháng 7/1968, Trần Lâm tình nguyện lên
đường nhập ngũ. Lúc đầu vào chiến trường, đơn vị anh đã gặp ngay thử thách: Cả
đơn vị Công binh của anh đang loay hoay không biết làm thế nào để giải quyết
dứt điểm vũng bùn sình lầy (ở rừng Trường Sơn) cho tăng và các phương tiện khác
đi qua? "Phải vét bùn lầy đi, đổ đá, vật liệu cứng... xuống", anh
nghĩ thế nhưng thật trớ trêu, nếu dùng sức người vục từng xô bùn, dùng xẻng
công binh hất từng xẻng sỏi... thì phải cần tới mười lần quân số đơn vị anh lao
động ngày đêm liên tục cũng phải kéo dài cả... tháng!
Làm thế nào đây? Một sáng kiến vụt lóe
trong đầu anh, ở gần đó có một dòng suối chảy với cường độ rất mạnh, anh cho
chặn đứng dòng chảy". Lợi dụng quy luật "nước chảy chỗ thấp",
anh cho xẻ một con ngòi sang khu sình lầy như lũ ống để tự sức nước quét sạch
khu sình ấy đi... Sau đó, anh cho phá đập, trả lại nguồn suối tiếp tục ầm ầm chảy
ngày đêm; còn khu sình lầy anh cho đá hộc, vật liệu cứng tống xuống... xe ta
lại băng băng qua. Sáng kiến trên của anh đã được đơn vị ghi nhận là độc đáo,
dễ ứng dụng, tiết kiệm sức người sức của, và là một trong những chiến công của
"Anh hùng LLVTND Trần Lâm"...
Trần Lâm cống hiến tận tâm cho Quân đội đến đầu năm 1991, khi đất nước bước sang thời kì đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng lương người lính được cải thiện; lẽ của người đời "ngồi lại" làm... quan binh thời bình, hưởng vinh hoa, thì ông lại xin được khoác ba-lô con cóc ra về. Trong con mắt nhân dân địa phương: chữ Liêm trong ông luôn ngời sáng./.
Trần Lâm cống hiến tận tâm cho Quân đội đến đầu năm 1991, khi đất nước bước sang thời kì đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng lương người lính được cải thiện; lẽ của người đời "ngồi lại" làm... quan binh thời bình, hưởng vinh hoa, thì ông lại xin được khoác ba-lô con cóc ra về. Trong con mắt nhân dân địa phương: chữ Liêm trong ông luôn ngời sáng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét