Từ lý luận và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư đã khẳng định trong
bài viết của mình rằng, "lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội
và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hóa". Hơn nữa, thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội cho
thấy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực
hiện quyền lực của nhân dân. Việc phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và
bảo vệ Tổ quốc được chú trọng… chính là thành tựu về lý luận của Đảng, là kết
quả sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu của về văn hóa của nhân loại…
Đồng thời,
việc "đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả
lý luận quan trọng". Bởi, thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính
sách, trong suốt quá trình phát triển và đó chính là/được coi là công cụ,
phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình kinh tế tổng quát ở
Việt Nam... Vì thế, những luận điểm của Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết là
khoa học, thuyết phục, không chủ quan, duy ý chí; là minh chứng sắc bén bác bỏ
sự xuyên tạc, xảo trá của các đối tượng cơ hội, phản động, thù địch…
Hơn nữa, trong
bài viết của mình, Tổng Bí thư đã không chỉ trả lời rất rõ, lập luận sắc sảo về
những nội dung đã nêu ra mà còn khẳng định rõ: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất
nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng
khó khăn, phức tạp; cho nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với
nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới… Đây chính là gắn lý luận với thực tiễn, không hề
mơ hồ, càng không ảo tưởng như các luận
điệu thù địch xuyên tạc.
Tổng Bí thư
xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì
con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn
nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm";
"xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính
đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt
lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "Con người giữ vị trí
trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”… Đây chính là sự cụ thể
hóa Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011, Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ
tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã
hội; là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta
đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay!
Bên cạnh đó,
trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản là
không thể phủ nhận: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày
nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng
và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”… Tuy nhiên, khi
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (chỉ bỏ
qua những mặt hạn chế của chủ nghĩa tư bản như áp bức, bất công, bóc lột...),
song không bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong
thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Cuối bài viết,
Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục như: Về kinh tế,
chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững… Về xã hội,
khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều
dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt
xuống cấp… Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng: tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy
thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi
thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
Vì thế, việc
Tổng Bí thư khẳng định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu
trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh"; đồng thời, kết luận rằng
vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng; sự kiên định và vững vàng trên nền tảng
tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đồng lòng,
đoàn kết của nhân dân chính là nguồn sức mạnh sâu xa, cội nguồn của thắng lợi
và sự phát triển… chắc chắn không phải là
"sự hoang tưởng", lại càng không phải là "cái bánh vẽ của Đảng
Cộng sản Việt Nam" như các thế lực thù địch bôi nhọ, phủ nhận.
Lý luận và
thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề
đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Bài viết không chỉ thể hiện tầm nhìn xa,
tư duy sắc sảo mà còn cho thấy bản lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước
những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế, góp phần giúp mỗi cấp ủy,
mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội - đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao
động, không ngả nghiêng trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch;
đồng thời, nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ
hơn, kiên định và làm tròn trách nhiệm của mình cao hơn nhằm khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào
năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII đã nêu ra./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét