Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho
thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng
lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết
Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/5/1890 -19/5/2021) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (23/5/2021), ngày 16/5/2021, GS.TS. Nguyễn
Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố
bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Ngay sau đó, trên mạng xã
hội xuất hiện nhiều bài viết của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính
trị cố tình lèo lái, cắt cúp, sử dụng ngôn ngữ vừa kích động vừa mị dân,
dẫn dắt có chủ ý để không chỉ dừng lại ở sự xuyên tạc nội dung bài viết của
Tổng Bí thư mà sâu xa hơn chính là âm mưu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng,
thổi phồng những hạn chế trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, những tồn
tại trong công tác quản lý kinh tế... để gây hoang mang, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân; làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, với con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí Thư nêu rõ:
"Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một
học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế
độ... Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học
thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay".
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì “chỉ có chủ nghĩa cộng
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(5). Vì thế, về bản
chất, chủ nghĩa xã hội được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó chính là một chế độ xã hội do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; trong đó, nhân dân lao động làm chủ và mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân; là xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần của mỗi người dân. Đó là một xã hội kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá
nhân với tập thể và lợi ích xã hội, giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và
hưởng thụ; đồng thời, cũng là một xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người
là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người,v.v.. Chủ nghĩa xã hội thực
sự là một chế độ mới, khác biệt, ưu việt, đầy tính nhân văn so với các chế độ
xã hội trước đó như công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản
chủ nghĩa và đó là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, mà việc xây dựng, hoàn
thiện nó là một quá trình lịch sử lâu dài, để từng bước đạt tới mục tiêu.
Dưới ngọn cờ độc lập, tự do có hướng đích chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn
đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc
Việt Nam là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của
toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác
định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Khi miền Bắc quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ rằng: “Ở miền
Bắc, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân
tộc ta...
Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ
thực tiễn, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã
được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp đúng như Nghị quyết Đại hội VIII (1996)
của Đảng nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi
mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ
nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và
"con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại". Cùng với đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội cũng
khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời,
nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp
đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (Cương lĩnh
2011) đã nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và những mối
quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của
con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, có thể thấy “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” và trong hơn 9 thập niên
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng
ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn
lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định con đường duy nhất đúng để đất nước
phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc Đảng
quyết định đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và cả nước đồng thời thực hiện
2 chiến lược cách mạng ở hai miền; quyết định đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội sau khi nước nhà thống nhất; tiến hành sự nghiệp đổi mới và tiếp tục
kiên định hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hơn 35 năm qua… chính là
sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, kiên định và sáng tạo của Đảng dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới có thể đổi thay, song con đường đó là phù
hợp quy luật, đúng như Đảng khẳng định tại Đại hội XII (2016): “Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu
thế phát triển của lịch sử”.
Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản
ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải
quyết. Bài viết không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo mà còn cho thấy
bản lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước những đổi thay của tình hình
trong nước và quốc tế, góp phần giúp mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ,
đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
- đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao động, không ngả nghiêng
trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, nêu cao tinh
thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, kiên định và làm tròn
trách nhiệm của mình cao hơn nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành
nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045 như Nghị quyết
Đại hội XIII đã nêu ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét