Bức tranh toàn diện, trung thực và sống động về tình hình tôn
giáo và chính sách của Nhà nước Việt Nam với tôn giáo đã được giới thiệu rộng
rãi cho dư luận trong và ngoài nước với việc Ban Tôn giáo chính phủ cho công bố
sách trắng “Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam” từ năm 2007.
Vậy mà hiện nay trên các trang mạng xã hội đặc biệt là bài biết vẫn đầy rẫy những bài
viết của những tổ chức, cá nhân phản động, bất mãn, rêu rao cái luận điệu cũ
rích khi cho rằng Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo. Như bài viết “Việt Nam có
quyền tự do tôn giáo không” của Trần Phạm.
Đây thực sự là những nhận
định vô căn cứ, bóp méo, xuyên tạc sự thật đang diễn ra trong nước một cách trơ
trẽn. Thực tế, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
đã có những chính sách đúng đắn về tôn giáo. Trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu sáu vấn đề cấp bách cần
giải quyết, trong đó có việc thực hiện “tín ngưỡng tự do, Lương Giáo đoàn kết”.
Đây là quan điểm cơ bản mà sau đó đã được củng cố, phát triển xuyên suốt qua
các hiến pháp sau này.
Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập nêu rõ “Mọi
công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Sau khi đất nước thống nhất, Hiến pháp năm
1980 đã ghi “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào.
Nhìn lại lịch xử và thực tiễn hiện nay ở trong nước, không ai có
thể phủ nhận rằng: Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực của trong việc
đảm bảo trên thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân và đạt được
những kết quả quan trọng. Chỉ xin nêu ra vài thí dụ: Theo số liệu thống kê,
hiện nay, ở Việt Nam có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công
nhận, cấp đăng ký hoạt động. Ngoài các tôn giáo lớn du nhập từ nước ngoài, như
Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Bà-la-môn,... còn có các tôn giáo nội
sinh, như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh
độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,... Các tôn giáo ở nước ta, mặc dù độc lập về nghi
lễ nhưng gắn bó với nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự thật đó đã có sức thuyết phục mạnh mẽ
đối với cộng đồng quốc tế. Với những gì chứng kiến khi đến Việt Nam, nhiều
người nước ngoài đã ví Việt Nam như một bảo tàng tôn giáo của thế giới bởi sự
phát triển đa dạng của các tôn giáo. Từ những phân tích và số liệu cụ thể trên,
chúng ta đã có cơ sở quan trọng cả về lý luận và thực tiễn để phản bác lại
những thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, đấu tranh với những
âm mưu của các thế lực thiếu thiện chí đang tìm cách lợi dụng vấn đề tự do tôn
giáo, tín ngưỡng để gây áp lực với Việt Nam, ngăn cản sự phát triển của các
quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét