Nhiều bạn, mỗi khi thấy Trung Quốc có những
hành vi ngang ngược và
người
phát ngôn Bộ Ngoại giao ta phản đối, quan ngại thì lại cho rằng ta bất lực.
Mình
nghĩ các bạn có thể bực mình, nhưng quan trọng hơn là trước đó bạn cần biết một
chút về công pháp quốc tế, để có thể hiểu giá trị của lời phản đối ấy.
1. ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
Luật quốc tế là hệ thống những nguyên tắc,
quy phạm pháp luật, được các
quốc
gia xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, thông qua đấu tranh và
thương
lượng để điều chỉnh mối quan hệ (chủ yếu là quan hệ chính trị) với nhau.
Khi
một bên vi phạm, khác với luật quốc gia, không có cơ quan cưỡng chế Luật Quốc tế.
Các chủ thể tự thỏa thuận quy định các biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hay tập thể
với điều kiện phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Có nhiều mức
độ: Nhẹ là buộc xin lỗi, yêu cầu phục hồi danh dự. Ở mức độ nặng là hủy bỏ điều
ước quốc tế, cắt đứt quan hệ ngoại giao, trả đũa, giáng trả (để tự vệ) … Để
tham gia một điều ước quốc tế: Không có cơ quan lập pháp để xây dựng
các
quy phạm pháp luật của Luật Quốc tế. Con đường hình thành nó là sự thỏa
thuận
giữa các quốc gia bằng cách ký kết các điều ước hoặc cùng nhau thừa nhận
các
tập quán quốc tế. Và vì vậy có hai loại thành viên của một Điều ước quốc tế là
Thành
viên sáng lập (có sáng kiến và tham gia đàm phán soạn thảo điều ước) và
Thành
viên hiệp ước (thừa nhận nội dung quy phạm và tham gia sau khi điều ước
ra
đời), có trách nhiệm và kế thừa nghĩa vụ như mọi thành viên khác. Những nguyên
tắc trên được quy định tại Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước
Quốc
tế.
2. TÀU LẠ ĐÂM TÀU NGƯ DÂN, SAO KHÔNG BẮT?
Với các vụ tranh chấp trên Biển Đông, cả
Việt Nam và Trung Quốc đều là
thành
viên Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) được
ký
kết năm 1982 có hiệu lực 1994. Vì thế cả hai bên có nghĩa vụ chấp hành. Tại sao
ta không bắt giữ các tàu Trung quốc hoặc tàu "lạ" đã đâm va
vào tàu của ngư dân ta? Tại sao bộ đội biên phòng hoặc kiểm ngư của ta không
truy đuổi hoặc nổ súng?
Theo quy định của UNCLOS khi có một vụ
đâm va xảy ra nằm ngoài lãnh
hải,
quyền tài phán (xét xử) thuộc về quốc gia mà con tàu thủ phạm mang cờ, hoặc quốc
gia mà thủy thủ có lỗi trong vụ đâm va ấy mang quốc tịch. Như vậy nếu có chuyện
đâm va xảy ra giữa tàu Trung Quốc và tàu Việt Nam mà thủ phạm là tàu Trung Quốc
thì quyền xét xử thuộc về Trung quốc và ngược lại. Còn truy đuổi: Việc truy đuổi
chỉ được thực hiện khi một con tàu vi phạm lãnh hải, buôn ma túy, chở nô lệ hoặc
tàu cướp biển. Việc truy đuổi chỉ được thực hiện trong lãnh hải, việc truy đuổi
tới vùng tiếp giáp lãnh hải hoặc vùng biển quốc tế chỉ được thực hiện nếu sự
truy đuổi - trốn chạy đó là liên tục, và phải dừng truy đuổi khi con tàu bị đuổi
đã đi vào hải phận quốc gia khác. Như vậy nếu muốn đuổi một tàu lạ thì ta phải
chắc chắn rằng nó vi phạm, phải đuổi liên tục, muốn vậy phải phát hiện sớm và
tàu ta phải nhanh hơn tàu nó hoặc có tàu ở vòng ngoài để chặn
đầu
nó. Thành ra, người Việt đánh cá cần xác định mình đang ở khu nào để có thể
ứng
xử vừa hợp luật, vừa an toàn.
3. SAO VÔ LỚP MÀ CÒN NÓI CHUYỆN RIÊNG?
Tại sao đã là thành viên UNCLOS nhưng
Trung quốc vẫn muốn đàm phán song phương với từng bên riêng lẻ trong tranh chấp
biển đảo? Điều đó có sai không? Sao vô lớp (UNCLOS), cô đang giảng mà còn nói
chuyện riêng với bạn?
Theo
UNCLOS, hai (hoặc nhiều) quốc gia thành viên Công ước có thể ký các điều ước sửa
đổi hay đình chỉ việc áp dụng các quy định của Công ước. Với điều kiện nội dung
này chỉ áp dụng vào các mối quan hệ giữa họ với nhau, với điều kiện là nó không
ảnh hưởng đến nội dung, mục đích và các nguyên tắc cơ bản đã
được
nêu trong Công ước, không ảnh hưởng đến quyền hay nghĩa vụ của quốc gia
khác
là thành viên Công ước. Khi ký xong với nhau, họ gửi lưu chiểu và xem như
một
phụ lục của UNCLOS. Vì vậy ông Trung Quốc muốn đàm phán riêng với từng bên, nó
không sai quy định của UNCLOS mà lại có lợi thế cho Trung quốc về tương quan lực
lượng. Việc chấp thuận “sáng kiến” này hay không tùy thuộc vào thế lực và ý chí
của bên được đề nghị (như Việt Nam, Philippines …).
4. HIỂU “ĐẢO’’ Ở TRƯỜNG SA THẾ NÀO CHO
CÓ LỢI?
Thực ra, Việt Nam không chỉ đương đầu với
Trung Quốc mà còn phải đàm
phán
với nhiều quốc gia liên quan về Trường Sa. Theo Điều 121 của UNCLOS thì đảo là
nơi có dân cư sinh sống và có kinh tế riêng, được hưởng quy chế như đất liền.
Vì vậy nếu áp dụng điều này một cách cứng nhắc, cho rằng tất cả các đảo hoặc đá
lớn nhỏ ở Trường Sa đều không phải là đảo thì lãnh hải vùng biển chúng ta không
được mở rộng vì không được hưởng quy chế về lãnh hải. Còn nếu mở rộng ra, coi tất
cả các đảo và đá ở Trường Sa đều là Đảo, thì với quy chế quốc gia quần đảo,
Philippines có quyền lấy những điểm đảo xa nhất về phía Tây của họ nối lại
thành đường cơ sở để từ đó tính lãnh hải, như vậy thì biển của Phi sẽ chồng lấn
với biển của ta. Cách hiểu và vận dụng có lợi nhất là một số điểm đảo lớn, có
người ở được hưởng quy chế đảo, khi đó ta có một số đảo như Trường Sa Lớn, Sơn
Ca, Song Tử Tây, Sinh Tồn… được hưởng quy chế này, từ đó lãnh hải được công nhận
ở mức rộng nhất.
5. “CỰC LỰC PHẢN
ĐỐI”: ĐẤT TRANH CHẤP THÌ KHÔNG CẤP SỔ ĐỎ
Về nguyên tắc, một quốc gia được công nhận
có chủ quyền với một vùng
lãnh
thổ, biển đảo khi đã kiểm soát, quản lý trên thực tế một thời gian nhất định mà
không vấp phải sự phản đối của các quốc gia khác. Vì lẽ đó, khi Trung Quốc có
hoạt động gì ở Hoàng Sa thì ta đều phải phản đối mạnh mẽ, liên tục. Nếu ta im,
xem như ta thừa nhận, sẽ là cơ sở để họ hợp thức hóa và có sổ đỏ cho quần đảo
này. Khi đó thì cái mất không chỉ là đảo mà là biển. Bởi với quy chế đảo, họ có
quyền dùng nó làm cơ sở xác định lãnh hải tính từ Hoàng Sa.Vì thế, các bạn
không nên chế giễu nếu chưa hiểu giá trị của sự phản đối. Đoạn này mình mượn lại
lời của Hoàng Trọng Hiếu: “Trung quốc đã kiểm soát hoàn toàn Hoàng Sa từ 1974
và họ thực tế đã thực thi quyền quản lý “liên tục” từ bấy đến nay đối với quần
đảo này. Việc quản lý này sẽ được thêm yếu tố quan trọng thứ hai là “không có
tranh chấp” nếu Trung quốc không bị nước nào phản đối. Và lời tuyên bố của chị
Phan Thúy Thanh, anh Lê Hải Bình hồi xưa và chị Lê Thị Thu Hằng bây giờ là để
chặn việc Trung quốc đạt được nốt yếu tố quan trọng này, giá trị pháp lý của nó
cũng không kém gì việc Việt Nam đưa tàu chiến ra bắn nhau với tàu Trung Quốc ở
Hoàng Sa đâu. Lời tuyên bố của các thế hệ người phát ngôn nghe thì rất là “lời
nói gió bay”, nhưng nó rất quan trọng để duy trì được quyền pháp lý của Việt
Nam tham gia giải quyết vấn đề chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa trong tương lai
– khi Việt Nam có một điều kiện tốt hơn hoàn cảnh hiện tại!”.
Thanh Bình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét