I.
Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà nước và tuyệt đối hóa vai trò của
kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền
kinh tế là đúng về lý luận và phù hợp với thực tiễn. Vậy mà, một số người lại
cho rằng, kinh tế nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo, vai trò đó thuộc về
kinh tế tư nhân. Từ đấy họ kêu gọi tư nhân hóa nền kinh tế. Xem xét một cách
khách quan, khoa học, thì đó là điều không thể.
1. Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế
nhà nước.
Mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có quan hệ sản
xuất thống trị, theo đó có thành phần kinh tế chủ đạo. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thành
phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là
chủ yếu, là nền tảng. Ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng có kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước được xây dựng trên cơ sở sở hữu nhà nước tư bản độc
quyền. Dù họ không xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, nhưng kinh tế
nhà nước tư bản độc quyền có vai trò to lớn.
Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay có nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Song, sở hữu nhà nước và thành phần
kinh tế nhà nước là đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo và là một trong các yếu tố
quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó được khẳng định tại Khoản 1, Điều 51, Hiến pháp
năm 20131, là hoàn toàn phù hợp với lý luận và thực tiễn nước ta.
Kinh tế nhà nước đã và đang giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế nhà nước
được cấu thành từ: (1) Bộ phận doanh nghiệp gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước sở
hữu 100% vốn và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần hoặc phần vốn chi phối;
(2) Bộ phận phi doanh nghiệp, ngoài các tài sản thuộc sở hữu nhà nước còn bao
gồm cả đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản
xuất, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, v.v. Với phạm vi rộng lớn như vậy,
sở hữu nhà nước và kinh tế nhà nước giữ vị trí trọng yếu, vai trò chủ đạo trong
tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nền tảng cơ bản để
phát triển mọi ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp;
đã và đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trong đó, hệ thống
doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt, đang được đổi mới, mặc dù tỷ trọng GDP có
giảm sút từ 29,34% năm 2010, còn 29,01% năm 2013 và 28,69% năm 2015, nhưng vẫn
giữ vai trò chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt, tập trung hơn vào những
ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn Nhà nước cần nắm giữ, v.v. Hệ thống doanh
nghiệp nhà nước do sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa nên tuy số lượng giảm, lĩnh
vực, địa bàn thu hẹp, nhưng vẫn có bước phát triển mạnh về quy mô tài sản,
doanh thu, lợi nhuận và nộp ngân sách nhà nước. Năm 2013, riêng 18 tập đoàn,
tổng công ty quy mô lớn có vốn nhà nước là 840 nghìn tỷ đồng (chiếm 83% vốn nhà
nước tại doanh nghiệp), tổng giá trị tài sản 1.985 nghìn tỷ đồng, tổng doanh
thu 1.184 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 136 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách
nhà nước 191 nghìn tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành lực lượng nòng cốt để thực
hiện vai trò quan trọng trong ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã
hội, góp phần to lớn trong đảm bảo quốc phòng - an ninh, an ninh lương thực, an
ninh năng lượng quốc gia. Kinh tế nhà nước là lực lượng chủ yếu hình thành các
trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng đầu tư vào những lĩnh vực, các công
trình,… trọng điểm quốc gia đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm và lợi
nhuận thấp, v.v. Đồng thời, là đội quân chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế,
thu hút FDI, có vai trò tích cực trong việc hạn chế những tác động tiêu cực của
khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta trong các năm
2008 - 2010. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động thực sự có
hiệu quả, như: Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Bưu chính viễn thông, Tập
đoàn Công nghiệp hóa chất, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản, v.v.
Tuy nhiên, kinh tế nhà nước cũng có những hạn
chế, yếu kém. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh, năng suất của tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước còn thấp và rất thấp. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn
yếu, thất thoát và thua lỗ còn lớn. Tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng,
độc quyền doanh nghiệp đang hiện hữu, làm méo mó quan hệ thị trường, gây thiệt
hại cho người tiêu dùng, hạn chế sự cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế,
v.v. Một số người chỉ dựa vào những yếu kém, hạn chế của kinh tế nhà nước mà
cho rằng thành phần kinh tế này không thể giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế; rằng
xác định “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Việt Nam đã phải trả giá quá
đắt” Từ đó, họ đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này; đòi tư
nhân hóa hết doanh nghiệp nhà nước, “khuyên” ta nên bỏ cụm từ “kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo”,... đều là những cách nhìn phiến diện.
Mặc dù doanh nghiệp nhà nước (bộ phận nòng cốt
của kinh tế nhà nước) thời gian qua có những hạn chế, yếu kém, nhưng đó là
những yếu kém trong khâu tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, là sai lầm và
yếu kém của một số cá nhân lãnh đạo và nhà quản trị doanh nghiệp,… chứ không
phải là sai lầm về quan điểm, chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hơn nữa, nhìn chung toàn bộ nền kinh tế; trong đó, có kinh tế nhà nước dựa trên
lực lượng sản xuất còn thấp kém, cùng với nền kinh tế thị trường còn rất mới và
hội nhập quốc tế, thì những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nước ta nói
chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng là khó tránh khỏi. Thực tế cũng cho
thấy, ở Việt Nam, không phải mọi doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đều hoạt động có hiệu quả. Chúng ta đã và đang chứng kiến nhiều
“đại gia” của kinh tế tư nhân “ngã ngựa”; thua lỗ, mất trắng doanh nghiệp, phải
đi làm thuê hoặc rơi vào vòng lao lý, tù tội, v.v. Vậy là, hiệu quả sản xuất,
kinh doanh không hẳn là do sở hữu quyết định.
Đức Hiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét