Tự
do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng
và bảo đảm. Tuy nhiên ở bất kỳ quốc gia nào, tự do ngôn luận cũng phải nằm
trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến
quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an
ninh quốc gia.
Ở Việt Nam, hiện có hàng trăm mạng xã hội khác nhau đăng ký hoạt
động. Một số mạng xã hội phổ biến như Facebook, Zalo, Twitter, Instagram...
Trong đó, Facebook là trang mạng xã hội phổ biến nhất với hơn 65 triệu người sử
dụng. Với cơ chế hoạt động có tính chất tương tác cao, nhiều tính năng như
chat, Email, chia sẻ file, hình ảnh, nhạc, listream, tin nhắn, trò chuyện nhóm,
viết blog, chơi game, diễn đàn trực tuyến..., mạng xã hội ngày càng thu hút
nhiều người tham gia. Tuy nhiên, nhiều năm trở lại đây, các thế lực thù địch
cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị “đàn áp”, kiểm duyệt gắt gao, không có tự
do thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ suy nghĩ, chính kiến của
mình hay Luật An ninh mạng của Việt Nam có tính đàn áp, cho phép Chính phủ có
quyền hạn rất rộng, có thể hạn chế quyền tự do trên mạng, buộc các công ty công
nghệ phải giao nộp một lượng lớn dữ liệu và kiểm duyệt nội dung của người dùng.
Bên cạnh đó, họ còn ra sức rêu rao, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do
ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng, xiết
chặt quyền tự do biểu đạt. Họ chỉ trích chính quyền bắt, truy tố tùy tiện người
chống đối; kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật mang tính chất hình sự;
chính quyền xiết chặt, kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm
ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo, v.v. Họ ngộ nhận về quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí dẫn tới cho rằng các quyền này là tuyệt đối, nhằm kích
động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kể cả bôi nhọ, chống đối chế độ
xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội, v.v. Từ đó, thúc
đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí để chống đối chế độ,
xuyên tạc Nhà nước ta bắt, bỏ tù nhà báo độc lập, đấu tranh cho cái gọi là tự
do ngôn luận, vu cáo chính quyền Việt Nam ngăn cấm người dân tiếp cận thông
tin... Đây là những luận điệu xuyên tạc, lố bịch, bởi: Tôn trọng, bảo
vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí
là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là
cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản
biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng
dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Thực hiện quan điểm đó,
Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo
chí (năm 2016) và Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016) quy định trách nhiệm của
Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự
do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử
trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính
xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Đặc biệt, báo chí
không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Hiện nay, Việt Nam có khoảng
41.000 nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 779 cơ quan báo chí
(trong đó có: 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ
quan được cấp phép hoạt động phát thanh - truyền hình với tổng số 87 kênh phát
thanh và 193 kênh truyền hình. Tính tới tháng 6/2021, số lượng người dùng
internet là gần 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm
hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội là gần 76 triệu người, tăng gần
10 triệu người trong vòng 01 năm (tương đương 73,7% dân số). Việt Nam được đánh
giá là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và
đứng thứ sáu trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Mặt khác, quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin không phải là quyền tuyệt đối mà là
quyền có giới hạn. Các văn kiện quốc tế về quyền con người, như:
Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều 29), Công ước quốc tế về
các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 19) đều khẳng định: việc thực hiện
quyền tự do ngôn luận phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, có
thể phải chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong luật và là cần thiết
nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia
hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Pháp luật của đa
số các nước trên thế giới đều giới hạn quyền này, như: tại Mỹ, Bộ luật Hình sự
(Điều 2.385, Chương 115) quy định về sự hạn chế của quyền tự do ngôn luận; tại
Đức, Luật An ninh mạng năm 2015 (sửa đổi năm 2018), quy định những dịch vụ mạng
xã hội có thể bị phạt lên đến 50 triệu Euro nếu để xảy ra trường hợp người dùng
lăng mạ, gây thù oán, hay phát tán các tin tức giả mạo...
Do vậy, Việt Nam đã xây dựng
và hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc
báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ;
nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên
báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh
bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng
không bỏ lọt tội phạm. Đồng thời, theo dõi, khảo sát, đánh giá và kịp thời điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, phù hợp với các quy
tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng xã hội, nhất là trên
không gian mạng. Sự thực trên đã vạch trần sự phiến diện, xuyên tạc về quyền tự
do ngôn luận tại Việt Nam./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét