Cùng
với Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quân sự, Chiến
lược Quốc phòng, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo
vệ Biên giới quốc gia có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
Ngày 28 tháng 9 năm
2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về Chiến lược bảo
vệ biên giới quốc gia nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ và nhân dân. Qua đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị tham gia quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia. Để tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia
đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, các ban, bộ, ngành, địa phương; cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ cần nắm vững các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, các ban, bộ, ngành, địa phương, nhất lừ lực lượng trực
tiếp tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo.
Tùy theo chức năng,
nhiệm vụ tổ chức phổ biến, tuyên tuyền cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân
dân các nội dung cơ bản của Chiến lược nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho
họ; tạo động lực phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
và cả hệ thống chính trị tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia,
biển, đảo của Tổ quốc.
Hai là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
về mọi mặt của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với
công tác xây dựng, quản lý và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, biển, đảo
của Tổ quốc.
Nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn
chặn và xử lý nghiêm các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, lấn chiếm, phá hoại
biên giới quốc gia. Tổ chức đấu tranh phòng, chống hoạt động vi phạm chủ quyền
lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công
tác quản lý, giám sát biên giới, chỉ đạo, hỗ trợ các đạo phương sản xuất các
sản phẩm thông tin truyền thống phục vụ đời sống, sinh hoạt của đồng bào các
dân tộc ở khu vực biên giới, hải đảo. Huy động các nguồn lực, triển khai các
chương trình hoạt động hướng về biên giới, vùng biển, đảo nhằm giữ dân bảo vệ
biên giới; phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc
ở khu vực biên giới, biển, đảo.
Ba là, xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia, củng cố cơ
sở chính trị địa phương vững mạnh, tạo nền tảng xây dựng thế trận biên phòng
toàn dân ở khu vực biên giới.
Xây dựng lực lượng bảo
vệ biên giới toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang là
nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách.
Phát
triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới với
các nước láng giềng. Khắc phục tình trạng “trắng” dân cư ở một số khu vực biên
giới, hải đảo. Thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng,
Nhà nước. Bố trí cán bộ biên phòng tham gia sinh hoạt chi bộ các thôn, bản, ấp;
tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện HTCT cơ sở vững mạnh ở khu vực biên
giới.
Bốn là, hoàn thiện thể chế, pháp luật về bảo vệ biên giới quốc
gia; nghiên cứu, hoàn thiện phương thức, phương án tổ chức quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trong tình hình mới.
Rà soát, hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật, các văn bản quản lý nhà nước về bảo vệ biên giới
quốc gia. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn việc thực thi pháp luật về
bảo vệ biên giới quốc gia. Triển khai các hoạt động, biện pháp nghiệp vụ, dự
báo các tình huống chiến lược có thể xảy ra. Kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh
phương án, kế hoạch xử lý. Giải quyết hiệu quả, kịp thời các tình huống nảy
sinh trên biên giới, vùng biển, đảo; không để bị động, bất ngờ.
Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực biên giới vững mạnh.
Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch tổng thể, có trọng tâm, trọng điểm về bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ
biên giới quốc gia gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư xây dựng các khu
kinh tế - quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Ưu tiên vùng đặc
biệt khó khăn, vùng trọng điểm chiến lược về quốc phòng, an ninh ở Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ và biển, đảo. Phát huy thế mạnh của vùng về du lịch sinh
thái, truyền thống văn hóa; đẩy nhanh tiến độ trồng rừng vành đại ở khu vưc
biên giới.
Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác
đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng và đối ngoại nhân dân trong xây
dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, chủ quyền biển, đảo.
Thực
hiện có trách nhiệm các cam kết và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là thành viên. Tiếp tục phát triển quan hệ đối tác với các nước láng giềng,
đẩy mạnh hợp tác biên phòng rộng rãi, toàn diện ngang tầm với quan hệ của Việt
Nam với các nước. Đấu tranh phòng, chống tội phạm xuyên biên giới, đối phó với
các nguy cơ có thể xảy ra trên biên giới, biển, đảo. Trao đổi kinh nghiệm trong
lĩnh vực biên phòng với các nước. Đẩy mạnh giao lưu quốc phòng, giao lưu hữu
nghị biên giới. Xây dựng phương án hoạch định trên biên giới quốc gia; xác định
ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam với các nước.
Triển khai thực hiện
các văn kiện pháp lý quốc tế về biên giới; phân giới và cắm mốc quốc giới trên
cơ sở các điều ước quốc tế về hoạch định biên giới quốc gia được ký kết với các
nước láng giềng. Xây dựng và củng cố mô hình kết nghĩa giữa các các địa phương,
đơn vị và nhân dân hai bên biên giới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng biên giới quốc gia hòa bình hữu nghị, ổn
định, hợp tác và phát triển.
Thực hiện tốt Chiến lược
bảo vệ biên giới quốc gia là góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa”,
giữ nước từ khi nước chưa nguy. Việc nhận thức đúng và thực hiện hiệu quả Chiến
lược này là trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, đảng viên, chiến
sĩ và mỗi công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét