Từ
tháng 5/1978, Trung Quốc vô cớ dựng lên “sự kiện nạn kiều”, thực chất là dụ dỗ,
đe dọa, lần lượt cưỡng ép gần 20 vạn Hoa Kiều đang sống yên ổn ở Việt Nam về
nước. Tiếp đó, Trung Quốc trắng trợn vu cáo Việt Nam ngược đãi, khủng bố xua
đuổi Hoa Kiều, rút chuyên gia, gây ra tình hình hết sức căng thẳng.
Cùng
với đó, Trung Quốc tăng cường làm đường cơ động, xây dựng căn cứ, hệ thống kho
trạm, vận chuyển tập kết vật chất, sơ tán nhân dân về phía sau. Đồng thời, thực
hiện các hoạt động nghi binh, đề ra kế hoạch “dạy cho Việt Nam một bài học” và
chuẩn bị chiến tranh “trừng phạt Việt Nam”.
Họ
tuyên bố lừa mị dư luận trong nước và quốc tế rằng chỉ sử dụng lực lượng “Bộ
đội biên phòng” để thực hiện “phản kích tự vệ”, bởi Việt Nam gây ra xung đột
“lấn chiếm đất đai”, “quấy rối biên cương” phía Nam. Thực tế, trên vùng biên
giới Việt-Trung không có lực lượng vũ trang nào của Việt Nam được triển khai gây
sức ép đến mức buộc Trung Quốc phải “tự vệ”, chỉ có phía Trung Quốc chuẩn bị
lực lượng quy mô lớn đánh Việt Nam.
Trước
diễn biến căng thẳng trên vùng biên giới phía Bắc, Đảng và Nhà nước ta kiên trì
chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình, đồng thời, khẩn trương tăng
cường lực lượng, đẩy mạnh xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
trên phạm vi cả nước, nhất là khu vực Quân khu 1, Quân khu 2.
Bất
chấp nỗ lực bằng con đường hòa bình của ta, dưới sự chỉ đạo của nhà cầm quyền
Trung Quốc, từ 3h30 phút ngày 17/2/1979 quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn
phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động lực lượng lớn
(hơn 600.000 quân) tiến công sang lãnh thổ của Việt Nam. Hướng tấn công chủ yếu
là Lạng Sơn và Cao Bằng; hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng
phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là
Quảng Ninh và Hà Tuyên. Số quân Trung Quốc tham chiến lúc này được cho nhiều hơn các
đạo quân xâm lược trước đó (thời điểm cao nhất, quân Mỹ huy động trên chiến
trường Việt Nam gần 550.000 quân, Pháp 250.000 quân...)
Mở đầu cuộc tiến công, trên mặt trận Lạng Sơn, đối phương
sử dụng các Quân đoàn 43, 55, và 54 (dự bị), có 160 xe tăng, xe bọc thép, 350
pháo cơ giới, chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chắt (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn
(Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng. Trên
mặt trận Cao Bằng, phía Trung Quốc huy động 3 quân đoàn (trong đó một quân đoàn
làm lực lượng dự bị), hai trung đoàn địa phương, 4 trung đoàn độc lập, 225 xe
tăng, xe bọc thép, hơn 300 pháo cơ giới,...
Trước
cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, Chính phủ ta đã ra tuyên bố nêu rõ:
Nhà cầm quyền Trung Quốc đã đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm
trọng tình hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước và khẳng định “Quân và
dân Việt Nam không có còn con đường nào khác là phải dùng quyền tự vệ chính
đáng của mình để đánh trả”.
Với
tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân ta, nhất là ở các
tỉnh Việt Bắc, Tây Bắc một lần nữa phát huy cao độ truyền thống cách mạng, sát
cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Cuộc
chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc (tính từ 17/2 đến ngày
18/3/1979), quân và dân ta đã gây tổn thất cho 9 quân đoàn chủ lực, loại khỏi
vòng chiến đấu hàng vạn quân, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18
tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng và xe
bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí và đồ dùng
quân sự. Cuộc chiến đấu anh dũng ở khu vực biên giới phía Bắc của tổ quốc đã
chứng minh một sự thật lịch sử: Nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu quỳ gối
trước bất kỳ thế lực xâm lược ngoại bang nào./.
Nguyễn Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét