Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông
Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các
nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hóa,
các tôn giáo. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam được
ví như “bảo tàng tôn giáo” của thế giới. Điều đó đã góp phần làm cho nền văn
hóa Việt Nam thêm phong phú và đặc sắc. Hiện nay, ở Việt Nam có 43 tổ chức
thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo
thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo.
Việt Nam có chính
sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối
xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của công dân. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại
hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền
chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản
trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều đó đã quy định rõ trong Hiến pháp
và pháp luật của nước ta.
Ngay sau khi hòa bình
lập lại ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định:
“Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ
luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện, chính quyền không can thiệp vào
nội bộ các tôn giáo”.
Nghị quyết Trung ương
7 (khóa IX) khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của
Đảng cũng đã chỉ rõ: “Quan tâm và tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt theo
Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước”.
Các Hiến pháp của
nước ta năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều thể hiện rõ quan
điểm nhất quán và xuyên suốt là tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của
nhân dân. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật”.
Năm 2016, Quốc hội
ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Chính phủ có Nghị định hướng dẫn tổ chức
thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng phù hợp với yêu cầu của hoạt động
tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ mới của đất nước, đồng thời thể hiện sự tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân
dân.
Hiện 95% dân số Việt
Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27%
dân số; có hơn 8 ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm, thu hút sự tham gia
đông đảo của các tín đồ và quần chúng nhân dân. Đặc biệt, nhiều hoạt động tôn
giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện kỷ
niệm 500 năm Cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc
Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)… Những nỗ lực này
của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét