Thời gian qua, các thế lực cực đoan thường xuyên lợi
dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo
quyệt. Trong đó, các thủ đoạn chính thường được sử dụng gồm:
Một là, đưa ra các báo
cáo, phúc trình có nội dung sai lệch, không phản ánh đúng thực tế về việc
thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam
Hai là, các thế lực thù
địch, chống đối âm mưu hình thành các tổ chức chính trị đối lập dưới vỏ bọc tôn
giáo, đặc biệt là tại các vùng dân tộc thiểu số của nước ta như Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ
Ba là, lôi kéo, cổ
súy, hậu thuẫn cho một số chức sắc tôn giáo ở trong nước tuyên truyền, xuyên
tạc về chế độ, chính quyền các cấp và sự phát triển của đất nước, xuyên tạc về
việc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam
1. Quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam - từ
chính sách đến thực tiễn
a) Chính sách nhất quán tôn
trọng quyền tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. C.Mác từng khẳng định “đặc quyền
tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người”2. Kế thừa và vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không những đã cụ thể hóa nội dung quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn
bổ sung, nâng tầm ý nghĩa của tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo Người, tự do tín
ngưỡng tôn giáo là nhu cầu của nhân dân, là quyền con người không ai được xâm
phạm. Bởi vậy, năm 1945, chỉ một ngày sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định việc thực
hiện chính sách tôn trọng tự do tôn giáo, đoàn kết lương giáo là một trong sáu
vấn đề cấp bách nhất cần giải quyết.
Một năm sau, Hiến pháp năm
1946 khẳng định mọi “công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”4.
Đến Sắc lệnh 223/SL ngày 14 - 6 - 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không
ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy”5. Các Hiến pháp sau này tiếp
tục khẳng định quan điểm nhất quán về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đặc
biệt, Hiến pháp năm 2013 có bước tiến mới khi khẳng định quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người, được Nhà nước thừa
nhận, tôn trọng và bảo vệ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm
pháp luật”6.
Trong suốt hơn 30 năm kể từ
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn
được tôn trọng. Ngày 16 - 10 - 1990, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
24/NQ-TW về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, tạo bước ngoặt
trong công tác tôn giáo. Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết số 24, ngày 12 - 3 -
2003, tại Hội nghị Trung ương lần thứ VII (khoá IX), Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW về công tác tôn giáo, tiếp tục
hoàn thiện các quan điểm về tôn giáo và công tác tôn giáo. Gần đây nhất, Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định: “Bảo đảm cho các tổ chức tôn
giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước
công nhận. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của
các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”7.
Nhằm thể chế hóa Hiến pháp năm
2013, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIV, ngày 18 - 11 - 2016, đã thông qua Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo, tạo hành lang
pháp lý quan trọng cho các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Văn bản này đã đánh
dấu một bước ngoặt cho quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
của Việt Nam, cụ thể hóa chủ trương nhất quán của Việt Nam về quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
b) Thực tiễn tự do tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay
Cùng với công cuộc đổi mới,
phát triển của đất nước, tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua có sự phục
hồi, phát triển mạnh mẽ. Nếu như trước năm 1986, ở Việt Nam chỉ có 6 tôn giáo,
3 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận thì từ năm 2003, đã có 15 tổ chức
tôn giáo thuộc 6 tôn giáo đủ điều kiện để được Nhà nước đã công nhận, với
khoảng 19 triệu tín đồ (chiếm 23,5% dân số). Đến năm 2020, Nhà nước đã công
nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn
giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước. Việc nhiều tôn
giáo và tổ chức tôn giáo được công nhận một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà
nước Việt Nam trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, là
minh chứng rõ nét khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử vì lý do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Về chức sắc, năm 1990, nước ta
có khoảng 38.000 chức sắc, nhà tu hành, đến nay tăng lên 61.200 chức sắc,
147.000 chức việc (tổng số chức sắc, chức việc khoảng 208.300 người), trong đó
tăng nhiều nhất là chức sắc của Phật giáo và của đạo Tin Lành. Bên cạnh đó, từ
năm 2013 đến nay, đã xuất bản gần 6.000 xuất bản phẩm tôn giáo, hơn 19 triệu
bản in; nhiều xuất bản phẩm được in bằng nhiều ngôn ngữ như tiếng Anh, Pháp,
tiếng các DTTS; 15 tờ báo, tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động;
nhiều tổ chức tôn giáo đã có website riêng để phục vụ việc sinh hoạt đạo,
truyền bá tôn giáo của mình. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép
xuất bản bằng 13 thứ tiếng của các dân tộc. Năm 2020, có 5.000 bản in Kinh
thánh bằng tiếng Ê Đê, 3.000 bản in Kinh thánh tiếng Gia Rai, hàng triệu đĩa
DVD, CD bằng nhiều ngôn ngữ được phổ biến rộng rãi. Các tổ chức tôn giáo đã
được nhà nước công nhận luôn được đối xử công bằng, bình đẳng trước pháp luật.
Chức sắc các tôn giáo được tự do truyền đạo theo quy định và được phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm theo quy định.
Cùng với sự gia tăng các tôn
giáo được công nhận, sự tăng lên của số lượng tín đồ tôn giáo thì ở khắp nơi
trên cả nước. Các ngày lễ quan trọng của các tôn giáo được tổ chức với quy mô
ngày càng hoành tráng, thu hút đông đảo không chỉ tín đồ mà cả quần chúng nhân
dân tham gia như Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin Lành, Lễ Phật
đản của Phật giáo, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn của đạo Cao Đài... Nhiều cơ sở thờ tự
của các tôn giáo được chính quyền quan tâm tạo điều kiện cấp phép xây mới và
trùng tu, cải tạo, nâng cấp khang trang, đáp ứng nhu cầu chính đáng về nơi sinh
hoạt đạo của của tín đồ và tổ chức tôn giáo. Thông qua các hoạt động tôn giáo,
hoạt động xã hội, chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo được nâng cao ý
thức về quyền và nghĩa vụ công dân, phát huy những giá trị đạo đức của tôn giáo
và đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, nhiều chức
sắc và tín đồ tôn giáo có tiếng nói đấu tranh hiệu quả với các hoạt động lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ đoàn kết tôn giáo, đoàn kết
dân tộc và luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân
quyền.
Có thể thấy, hoạt động đối
ngoại tôn giáo là một trong những hoạt động quan trọng và thường xuyên của Nhà
nước Việt Nam. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia các cơ chế
đối thoại dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hằng năm với các đối tác EU, Hoa Kỳ...Thời
gian qua, chính phủ Việt Nam đã chủ động chia sẻ thông tin cho các đoàn nghị sĩ
các nước vào làm việc, đại sứ quán các nước về những thành tựu trong việc thực
hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Không những thế, Việt Nam còn
thành lập các đoàn tới một số nước thuộc Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ để đối
thoại trực tiếp, trao đổi về vấn đề tôn giáo; tăng cường công tác tuyên truyền
về chủ trương, chính sách, những thành tựu về đảm bảo quyền tự do tôn giáo,
đồng thời phản bác những thông tin sai sự thật về tình hình tôn giáo ở Việt
Nam. Ban Tôn giáo Chính phủ đã phối kết hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao Việt
Nam đã kiên trì đấu tranh dưới nhiều hình thức đối với việc tổ chức USCIRF kiến
nghị đưa Việt Nam trở lại “Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do
tôn giáo - CPC”. Do vậy, năm 2020, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã không đưa Việt Nam
vào “Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” và “Danh sách
các nước cần theo dõi đặc biệt - SWL”.
3. Kết luận
Với số lượng tín đồ, chức sắc,
cơ sở thờ tự, trường đào tạo, số lượng kinh sách được xuất bản của các tôn giáo
tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, những hoạt động quan hệ quốc tế của
các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng và thực tế hoạt động sôi động của
các tổ chức tôn giáo hiện nay là những minh chứng rõ nhất cho những thành tựu
của việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Thực
tiễn này đã bác bỏ mọi nhận xét thiếu khách quan về việc thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta.
Như
vậy, một lần nữa có thể khẳng định, Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn
giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động
bình thường trong khuôn khổ pháp luật./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét