Tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của
con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên ở bất kỳ quốc gia nào, tự do
ngôn luận cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi
dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của cá nhân khác, đến đạo đức xã hội,
trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Với sự phát triển của công nghệ thông
tin, internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ thể hiện quyền tự do ngôn
luận của đông đảo người dân, điều này đã tạo ra khoảng trống lớn cho các thế
lực thù địch và phần tử cơ hội, phản động lợi dụng để chống phá đường lối chính
sách của Đảng, nhà nước ta hiện nay. Cụ thể nhất, vào ngày 09/02/2023 trên
trang blog VOV Tiếng Việt phát tán bài “Việt Nam vẫn bỏ tù và truy bức giới
hoạt động”, nội dung phủ nhận giá trị tự do, dân chủ ở Việt Nam; vu cáo chính
quyền Việt Nam vi phạm không gian dân sự thu hẹp quyền tự do ngôn luận…
Phải khẳng định rằng tự do nói chung, tự do ngôn luận
nói riêng đều cần được hiểu là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Tuyên ngôn quốc
tế nhân quyền năm 1948, Công ước nhân quyền châu Âu năm 1953, Công ước về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, nhưng
cũng nhấn mạnh tự do ngôn luận là tự do trong những giới hạn của đạo đức và
pháp luật, chủ yếu là nhằm bảo vệ nhân phẩm, danh dự (đời tư) của người khác,
bảo vệ bí mật kinh doanh, chống kỳ thị, phân biệt đối xử, chống kích động bạo
lực, chiến tranh, chống chỉ trích, phê phán chính quyền, đặc biệt nếu đó là
những kêu gọi bạo loạn, đe dọa đến trật tự công cộng và an ninh quốc gia. Bởi
vậy, mỗi quốc gia có thể cân nhắc tình hình thực tế của mình để cụ thể hóa việc
thực hiện quyền tự do ngôn luận của công dân.
Rõ ràng, trong bất cứ chế độ chính trị nào cũng không
thể có tự do ngôn luận tuyệt đối, các quốc gia đều xử lý nghiêm khắc hành vi
lợi dụng tự do ngôn luận; đề cao tự do ngôn luận phải vì lợi ích chung, không
phải là sự tuyệt đối hóa tự do cá nhân, không thể lợi dụng tự do ngôn luận để
viết, nói, xuyên tạc với ý đồ xấu, bất chấp luân lý và luật pháp.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo
đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do
ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do
ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư
trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Bên cạnh đó, chúng ta
còn có Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Khung pháp lý
của nước ta về quyền tự do ngôn luận cơ bản đầy đủ, đồng bộ, tương thích với
luật pháp quốc tế về quyền con người. Cũng giống như các quốc gia khác trên thế
giới, Việt Nam có những quy định để hạn chế và ngăn chặn những hành vi lợi dụng
tự do ngôn luận, xâm hại tới lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét