Trong
hệ thống công quyền ở nước ta, cán bộ từ chức hiện nay được nhìn nhận dưới hai
góc độ. Thứ nhất là cán bộ có sai phạm khi thực thi công vụ. Trong đó, một số
từ chức vì tự trọng, danh dự khi sai phạm của họ chưa đến mức phải cách chức.
Số còn lại từ chức, nghỉ việc vì sai phạm của họ đến mức phải xử lý, nếu họ
không từ chức thì tổ chức cũng sẽ cách chức. Thứ hai là cán bộ từ chức vì sức
khỏe; vì tạo cơ hội cho người khác; vì công việc không phù hợp với chuyên môn;
vì có định hướng khác... Thẳng thắn nhìn nhận, từ chức vốn là vấn đề không dễ
dàng với mỗi cá nhân do nó liên quan đến lợi ích, quyền lực, danh dự... thậm
chí là "cơm áo" hằng ngày của chính người đó.
Những
năm tháng kháng chiến, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, cán bộ phần lớn xả
thân đi làm cách mạng, chịu mọi tù đày cũng chỉ mong cách mạng thành công, đến
ngày được giải phóng. Khi đó, bổng lộc, quyền lợi với họ chỉ là thứ yếu, họ sẵn
sàng hy sinh cả tính mạng vì tổ chức. Bởi thế, chuyện họ từ chức khi thấy mình
không hoàn thành tốt công việc, hay nhường cơ hội cho người khác... diễn ra nhẹ
nhàng. Ngày nay, nhiều cán bộ trưởng thành trong hòa bình (một số được thừa
hưởng cuộc sống đầy đủ từ gia đình), gắn liền với quyền lợi, bổng lộc, bởi thế
không dễ để họ từ bỏ những điều đang có.
Bên
cạnh đó, gánh nặng khiến nhiều cán bộ không dám từ chức đó là sức ép từ gia
đình, dòng họ, đồng nghiệp. Sức ép từ quan niệm “một người làm quan cả họ được
nhờ” là áp lực lớn với nhiều cán bộ. Chức tước ở nước ta vẫn bị mặc định là
“tiêu chuẩn” đánh giá sự thành đạt, địa vị xã hội không chỉ với cá nhân mà còn
với gia đình, dòng họ, thậm chí mang tính địa phương. Dân tộc ta trọng tri
thức, trọng danh nên luôn quan niệm “một người làm quan cả họ được nhờ”, “làm
quan phát tài”. Về bản chất, đây là những quan niệm tốt đẹp, cái “cả họ được
nhờ” ở đây là tiếng tốt, tiếng thơm, nhưng dần dần nó mặc nhiên được hiểu là sự
nâng đỡ, mang lại lợi ích vật chất, quyền lực cho dòng họ.
Mặt
khác, dù là một góc khuất nhưng rất cần “điểm mặt, chỉ tên” đó là tình trạng
cán bộ chạy chức, chạy quyền không phải là chuyện hiếm. Ai đó, bỏ tiền bạc để
chạy chức thì khó để họ từ chức.
Mặc
dù Đảng, Nhà nước đã có những quy định rõ ràng cũng như khuyến khích cán bộ có
sai phạm, không đủ uy tín từ chức, tuy vậy, chúng ta chưa xây dựng được thiết
chế thuận tiện để cán bộ đã từ chức, nghỉ việc quay trở lại làm việc. Thực tế,
những cán bộ đã từ chức, nghỉ việc thì rất khó có cơ hội trở lại hệ thống công
quyền.
Những
tấm gương trong lịch sử
Từ
chức theo Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3-11-2021 của Bộ Chính trị “về việc miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ” là việc cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ
khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm quyền
chấp thuận.
Ở một chừng mực nhất định, trong lịch sử dân tộc, văn hóa
công vụ về từ chức đã hình thành dù chưa phổ biến. Nó thể hiện lòng tự trọng,
giữ phẩm giá của mỗi người. Khi thấy mình không đủ năng lực, không đủ uy tín để
lãnh đạo, dẫn dắt, mở đường thì từ chức là cần thiết. Từ chức đúng cũng là
tiếng nói phản biện, chống lại cái sai, cái không phù hợp. Lịch sử dân tộc ta
đã có những người như thế. Nhà giáo-đại quan Chu Văn An, đại thi hào Nguyễn
Trãi, Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm... là những người đã khẳng khái từ quan
khi khuyên can triều đình những việc làm sai trái mà không được chấp thuận.
Lịch sử dân tộc còn ghi việc nhiều vị quan tướng đã từ quan để phản đối sau khi
Vua Tự Đức và triều đình nhà Nguyễn ký các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp.
Cũng trong lịch sử các triều đại phong kiến, nhiều bậc danh tướng cầm quân đánh giặc, khi thất bại đã từ chức, tự
trói mình chịu tội với triều đình.
Thời
đại Hồ Chí Minh, vì sự nghiệp lớn lao của cách mạng, nhiều đồng chí giữ các
cương vị quan trọng đã sẵn sàng rút lui khỏi chức vụ để thuận lợi cho cách
mạng, sẵn sàng từ chức khi thấy mình chưa hoàn thành tốt trọng trách. Ngay sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa thành lập, khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Ủy ban
Trung ương Quốc dân Đại hội bầu ra, đáng lẽ cũng tham dự Chính phủ, song các
đồng chí ấy đã tự động xin rút, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng
còn ở ngoài Việt Minh. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần phát biểu trước
Đảng, trước dân cũng đã đánh giá rất cao công lao và sự hy sinh quyền lợi của
các đồng chí đó. Trong quá trình công tác, cũng có nhiều đồng chí lãnh đạo của
Đảng tự nguyện xin rút khỏi các vị trí lãnh đạo. Sau sai lầm của cải cách ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức đảng, đồng chí Trường Chinh xin từ chức Tổng Bí thư
của Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã xin rút khỏi Bộ Chính trị. Hay như đồng
chí Nguyễn Văn Linh từng xin rút khỏi Bộ Chính trị, nhưng sau đó, với những
đóng góp quan trọng cho Đảng, cho đất nước, ông trở lại tham gia Bộ Chính trị
rồi trở thành Tổng Bí thư.
Ngày
nay, có một số cán bộ mạnh dạn từ chức để dành cơ hội cho người khác. Một trong
số đó là ông Nguyễn Sự, nguyên Bí thư Thành ủy Hội An (Quảng Nam). Ông Nguyễn
Sự từ chức Bí thư Thành ủy trước hai năm của nhiệm kỳ. Việc ông Nguyễn Sự từ
chức đã gây sự tiếc nuối với nhiều người vì ông là cán bộ có uy tín, luôn làm
việc với tinh thần trách nhiệm cao và không có sai phạm.
Trên
thực tế, thời gian qua, đã có một số cán bộ giữ các chức vụ quan trọng ở cả
Trung ương và địa phương xin từ chức. Phần lớn số cán bộ này từ chức là do có
vi phạm khuyết điểm. Dù việc họ từ chức là thể hiện sự chủ động, tuy nhiên việc
từ chức sau khi đã nhận hình thức kỷ luật thì tính chất, ý nghĩa cũng khác.
Chúng ta cần những cán bộ làm gương như ông Nguyễn Sự, với lời chia sẻ của ông:
"Mình đã làm được một thời gian rồi, tư duy của mình không thể tạo ra
những cái mới, vì thế, để tạo điều kiện cho lớp trẻ kế tục sự nghiệp của mình
và sự nghiệp chung thì tốt nhất nên từ chức...".
Trên
thực tế, Đảng, Nhà nước đã có các quy định pháp lý cho việc từ chức. Nghị quyết
số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) của Đảng "về tập trung
xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực
và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ" xác định phải "xây dựng quy định để việc
nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hóa ứng xử của cán
bộ". Luật Công chức, viên chức cũng quy định những vấn đề này. Đặc biệt,
ngày 3-11-2021, Bộ Chính trị ban hành Quy định 41-QĐ/TW “về việc miễn nhiệm, từ
chức đối với cán bộ” và ngày 8-9-2022, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Thông báo
số 20-TB/TW Kết luận của Bộ Chính trị “về chủ trương bố trí công tác đối với
cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý sau khi bị kỷ luật”. Điểm
đáng chú ý, Bộ Chính trị khuyến khích cán bộ bị kỷ luật cảnh cáo hoặc khiển
trách mà năng lực hạn chế, uy tín giảm sút tự nguyện xin từ chức.
Có
thể thấy, những quy định này đã có nội hàm rất rõ khi coi việc từ chức là vấn
đề bình thường trong thực thi công vụ. Nó cũng mở đường cho những cán bộ có sai
phạm, yếu kém; đồng thời tạo thuận lợi cho những cán bộ muốn từ chức vì những
lý do chính đáng khác. Tuy nhiên, trên thực tế, còn một rào cản khác khiến cho
cán bộ không dễ dàng từ chức, đó là nếu đã từ chức thì gần như không còn cơ hội
để quay lại hệ thống công quyền. Thực tế, các quy định của Đảng không chặn
đường tiến của cán bộ đã từ chức. Điểm 2 Điều 10 Quy định số 41-QĐ/TW nêu: “2.
Cán bộ đã từ chức và bố trí công tác khác, nếu được cấp có thẩm quyền đánh giá
tốt, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện và khắc phục được những yếu kém, sai phạm,
khuyết điểm thì có thể được xem xét để quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử
theo quy định”. Dù vậy, trên thực tế vẫn còn quan điểm nặng nề, định kiến khi
phục chức, hay thăng chức cho một cán bộ từ chức. Dư luận dường như chưa sẵn sàng
chấp nhận điều đó. Có ý kiến cho rằng, cần có một “Khoán 100”, “Khoán 10” trong
việc “từ chức-phục chức”.
Như
đã đề cập, nếu ai đó đã chạy chức thì rất khó để họ từ chức, mà bằng mọi cách
để giữ chức. Bởi thế, cần xử lý cương quyết với tình trạng chạy chức. Cùng với
thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về cán bộ nêu gương, chống chạy chức,
chạy quyền thì điều rất quan trọng là thực hiện các giải pháp để ngăn chặn hành
vi này. Từ thực tiễn cho thấy, Đảng phải kiên quyết siết chặt quy trình, quy
định về công tác bổ nhiệm cán bộ theo hướng gắn trách nhiệm cụ thể của người đề
cử cán bộ và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm. Trường hợp cán bộ có sai
phạm trong phạm vi thời gian nhất định thì người đề cử và người đứng đầu cấp ủy
đề nghị bổ nhiệm cán bộ đó cũng bị xem xét xử lý kỷ luật. Cùng với đó, cần thực
hiện công khai danh sách cán bộ từ quy hoạch đến đề bạt, bổ nhiệm, đánh giá,
luân chuyển để quần chúng biết và cùng giám sát. Thực hiện cơ chế cạnh tranh
bình đẳng để tuyển chọn những người tài giỏi, trong sạch làm lãnh đạo, quản lý.
Và điều quan trọng nhất, phải ban hành được tiêu chuẩn đánh giá cán bộ hằng năm
một cách công khai, minh bạch, công bố trong tập thể để giám sát. Những người
bị đánh giá hạn chế về năng lực, phẩm chất, không có quy hoạch thì cũng không
dễ để chạy chức.
Trở
lại vấn đề gốc của người cán bộ thì từ chức cần được xem là vấn đề bình thường
trong bộ máy công quyền, đúng cả về lý luận và thực tiễn. Sinh thời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định quan điểm xuyên suốt: “Cán bộ là công bộc
của dân”; chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ... Chức tước,
địa vị của cán bộ thực ra là do nhân dân ủy thác. Khi thấy mình không thể làm
tốt vai trò là một công bộc thì từ chức là việc nên làm. Đó không đơn thuần là
một hành động mà cần xem nó là văn hóa ứng xử của cán bộ, rất cần thiết dù
trong bất cứ môi trường, công việc nào./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét