Hiện nay có những luận điệu sai trái được lan
truyền trên không gian mạng rằng: “Mô hình “độc đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo) là một mô hình tạo ra sự mất dân chủ trong xã hội Việt Nam".
Theo luận điệu này, muốn có một xã hội dân chủ, muốn phát triển
thì Việt Nam phải từ bỏ “chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN)”, đi theo con đường “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập” như ở các nước phương Tây. Vậy luận điệu trên
sai trái ở điểm nào?
Xã
hội dân chủ tại Việt Nam mang giá trị chung của nhân loại
Trước hết, tư tưởng
dân chủ của phương Tây có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ
dân chủ xuất hiện đầu tiên tại Athens, Hy Lạp trong thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên. Về nội dung, đó là “quyền lực thuộc về nhân dân” đồng thời
theo nguyên tắc đa số. Nhưng khái niệm “nhân dân” ở đây không bao gồm phụ nữ và
người nô lệ. Về mặt phương thức, dân chủ có nhiều hình thức: Dân chủ trực
tiếp đó là những người tham gia bầu cử bầu ra người đại diện cao nhất của
xã hội. Dân chủ gián tiếp-dân chủ đại diện là người bầu cử chỉ bầu ra
người đại diện của mình... từ đó chỉ có những người đại diện mới bầu ra cơ
quan và người lãnh đạo xã hội.
Trải qua quá trình
phát triển, chế độ dân chủ trên thế giới hiện nay có nhiều mô hình, trong
đó có chế độ dân chủ đa đảng nhưng thực chất chỉ có hai đảng thay
nhau cầm quyền như ở Mỹ (Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa); hay dân chủ
với nhiều đảng nhưng đều thừa nhận Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền
như tại Trung Quốc... Đáng lưu tâm là vào năm
2019, Đại học Cambridge (Anh) có một nghiên cứu cho thấy mức độ bất
mãn về thực trạng nền dân chủ tại Hoa Kỳ và Anh ở mức cao đặc biệt. Cụ thể, năm
2019, tỷ lệ người không hài lòng với nền dân chủ ở Anh lên tới 61%. Tại Mỹ, mức
độ hài lòng chỉ còn dưới 50%. Như thế có thể thấy, chế độ dân chủ tại hai quốc
gia trên chưa làm hài lòng chính công dân của họ, nên không thể và không nên
được coi là hình mẫu cho nền dân chủ của bất cứ quốc gia nào.
Chế độ dân chủ của
chúng ta khởi nguồn từ khi dân tộc Việt Nam đi theo con đường cách mạng
giải phóng dân tộc của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ
những thập niên đầu thế kỷ 20. Giữa vòng vây của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã vùng lên tiến
hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành lại được độc lập dân tộc, đồng
thời xây dựng xã hội mới. Trong “Tuyên ngôn Độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định Nhà nước của chúng ta đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng dân chủ
trên thế giới: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những
lẽ phải không ai chối cãi được”.
Sở dĩ ngày
nay, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao trước hết nhờ những
thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, tích cực chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, bảo đảm an sinh xã hội. Việt
Nam còn là một môi trường hòa bình, ổn định, có quan hệ ngoại giao hữu nghị với
các nước, đấu tranh vì tiến bộ trên thế giới. Vừa qua, Việt Nam đã trúng cử vào
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Đây là lần tái cử của Việt
Nam vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc sau nhiệm kỳ 2014-2016 rất thành
công, cho thấy uy tín cao của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế về dân chủ,
nhân quyền. Những thực tế khách quan đó cho thấy bản chất của xã hội XHCN tại
Việt Nam là một xã hội dân chủ, vì con người, và không có luận điệu xuyên tạc
nào có thể phủ nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét