Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
sâu rộng hiện nay, xu hướng khép lại quá khứ, vượt qua bất đồng, hướng tới
tương lai đã và đang được nhiều quốc gia ủng hộ. Tuy nhiên, một bộ phận có dã
tâm xấu với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn kêu gọi “phục quốc”, khôi
phục lại cái gọi là Việt Nam Cộng hòa. Vậy, thực hư câu chuyện ra sao? Lời kêu
gọi đó có tính thực tiễn hay không? Chúng ta cần nghiên cứu, làm rõ.
Có thể khẳng định, đây là một ảo
vọng hão huyền, không có tính thực tế, sẽ hoàn toàn thất bại. Chúng ta đều
biết, Việt Nam Cộng hòa là một chế độ ngụy quân, ngụy quyền, tay sai do đế quốc
Mỹ dựng lên, không đại diện cho quyền lợi, nghĩa vụ và ý chí của dân tộc Việt
Nam. Việc thành lập chế độ Việt Nam Cộng hòa là hoàn toàn phi pháp, vi phạm trắng
trợn Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Việt Nam . Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định:
Sau hai năm, sẽ tiến hành hiệp thương Tổng tuyển cử tự do vào tháng 7/1956 ở cả
hai miền để thành lập một chính quyền thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên, vì
những mục tiêu đen tối của mình, các thế lực hiếu chiến, thù địch đứng đầu là
đế quốc Mỹ thời đó đã đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống của cái gọi là Việt
Nam Cộng hòa ở miền Nam, thay thế cho Quốc trưởng Bảo Đại đã hết giá trị lợi
dụng. Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao đã tuyên bố Hoa Kỳ không tham dự vào những quyết
định của Hội nghị Giơ-ne-vơ và không bị ràng buộc vào những quyết định ấy. Giới
chức Mỹ cho rằng Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát duy nhất là không công nhận
Hiệp định Giơ-ne-vơ. Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam
Việt Nam ,
bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không.
Trong suốt quá trình hơn 20 năm tồn tại của mình,
chính quyền Việt Nam Cộng hòa luôn thể hiện tính chất phản động, hiếu chiến,
phản dân hại nước. Chúng đàn áp dã man nhân dân miền Nam với Đạo luật phát xít 10/1959;
thực thi chính sách tàn bạo “dồn dân lập ấp chiến lược” hòng “tát nước bắt cá”,
“tìm diệt và bình định”. Tất cả những chủ trương đó đều nhằm một mục đích duy
nhất là kìm kẹp, khủng bố nhân dân, tiêu diệt tận gốc đồng bào yêu nước và
chiến sĩ cách mạng Việt Nam .
Nếu thực sự vì dân thì không có một chế độ nào lại có những hành xử dã man, tàn
bạo với người dân của mình như thế.
Vấn đề quan trọng, mấu chốt cần phân tích, làm rõ là chế
độ Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn phụ thuộc vào quan thầy Mỹ, từ chính trị, kinh
tế, quân sự cho tới ngoại giao. Tất cả đều do quan thầy Mỹ điều khiển. Về chính
trị thì việc lập người này, thay người kia đều do ý người Mỹ; nhận viện trợ
kinh tế của Mỹ; về quân sự, Mỹ viện trợ kinh phí, vũ khí trang bị và huấn luyện
quân đội. Chính Tổng thống Mỹ khi đó, John. F. Kennedy đã tuyên bố “Nếu chúng
ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ (Việt Nam Cộng hòa – tác
giả) thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa
khi nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai
của nó. Đó là con đẻ của chúng ta, chúng ta không thể bỏ rơi nó” (Mc.Namara – Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và những bài
học Việt Nam – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 44).
Với những “thành tích” như thế, thử hỏi rằng Việt Nam
Cộng hòa có xứng đáng để lãnh đạo nhân dân, làm chủ đất nước Việt Nam hiện nay
không?
Một sự thật hiển nhiên là Việt Nam Cộng hòa đã bị nhân
dân và lịch sử phủ nhận, bác bỏ. Trong suốt 20 năm (1955 - 1975), nhân dân miền
Nam đã đứng lên đấu tranh nhằm lật đổ chế độ Việt Nam Cộng hòa bằng các phong
trào cách mạng như “Đồng khởi”, phong trào đấu tranh chính trị rầm rộ của học
sinh sinh viên, tầng lớp trí thức; phong trào đấu tranh đòi lẽ phải, công bằng
và tự do hoạt động của Phật giáo…Lịch sử đã rất công bằng khi không thừa nhận
chế độ Việt Nam Cộng hòa, đã vĩnh viễn loại bỏ Việt Nam Cộng hòa ra khỏi đời
sống chính trị, đời sống xã hội bằng cuộc Tổng Tiến công và nội dậy mùa xuân năm
1975.
Vậy, hiện nay thì sao? Xin thưa rằng, hiện nay, các
thành viên Việt Nam Cộng hòa, những kẻ phản quốc, nuôi ảo tưởng “phục quốc” đang
phải sống vất vưởng, tha hương cầu thực nơi đất khách quê người. Thực lực thì
quá nhỏ bé, chỉ như hạt cát trên sa mạc, làm sao đủ sức làm việc lớn, cái việc
không tưởng “phục quốc” của mình. Người Việt Nam ta có câu “có thực mới vực được
đạo”. Với một thể trạng thân tàn ma dại như vậy, thử hỏi ai có thể tin bọn phản
quốc, lưu vong có thể “phục quốc” chứ?
Đặc biệt những năm gần đây, tinh
thần hòa giải, hòa hợp dân tộc đã và đang trở nên phổ biến, chủ đạo trong đồng
bào Việt cả trong và ngoài nước. Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương hòa hợp, hòa
giải dân tộc. Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “Về công
tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” đã khẳng định người Việt Nam định cư ở
nước ngoài là một bộ phận rất quan trọng, không thể tách rời của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Chúng ta khuyến khích, mời gọi và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho đồng bào Việt Nam
đang định cư ở nước ngoài trở về nước thăm thân, đầu tư phát triển kinh tế. Hưởng
ứng chủ trương, chính sách đó của Đảng, Nhà nước ta, nhiều người Việt Nam đang
định cư ở nước ngoài, trong đó có một số nhân vật thuộc giới bên kia trước đây như
Nguyễn Cao Kỳ - nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã về thăm quê, có
nguyện vọng đóng góp xây dựng quê hương, đất nước. Rồi thì Việt kiều, các ca sĩ
hải ngoại, tất cả đều có chung một tâm niệm khép lại quá, chung tay phấn đấu vì
một nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc. Người Việt Nam ta thường nói “đánh kẻ chạy đi,
không ai đánh người chạy lại”, quay đầu là bờ, hãy chôn vùi quá khứ tội lỗi và
sai lầm của mình để trở về với đất mẹ yêu thương. Tổ quốc luôn luôn bao dung, dang
rộng vòng tay để ôm vào lòng mình những đứa con tội lỗi biết sám hối quay về.
Tóm lại, từ những phân tích trên, có thể thấy rằng kêu
gọi, hô hào “phục quốc”, khôi phục chế độ Việt Nam Cộng hòa chỉ là ảo vọng hão
huyền của các thế lực phản động lưu vong, của bọn bán nước hại dân. Lịch sử dân
tộc trước đây và sau này sẽ luôn khẳng định tính đúng đắn cho con đường tiến
lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lực
chọn./.
Thanh Sang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét