So với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn
là một nước nghèo và kém phát triển, sự phát triển kinh tế còn chưa vững chắc,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế còn
chưa cao. Trong lĩnh vực xã hội, còn nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải được
tiếp tục quan tâm giải quyết. Điều đó đã tác động, gây ảnh hưởng xấu tới an
ninh xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống bình yên của nhân dân.
Mặc dầu đời sống tinh
thần và vật chất của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, nhưng tâm trạng của một
bộ phận nhân dân chưa thật vui, chưa thật phấn khởi, không ít những hiện tượng
bất ổn khác làm cho chúng ta tiếp tục suy nghĩ như: sự phân hóa giàu nghèo giữa
các tầng lớp dân cư, các vùng miền, khoảng cách chênh lệch về sự phát triển
giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng ngày càng nới rộng.
Lĩnh vực công tác tư tưởng, văn hóa vẫn bộc
lộ không ít những hạn chế, yếu kém, đôi khi còn tỏ ra chưa theo kịp sự phát
triển của thực tiễn, chưa làm sáng tỏ được những vấn đề do thực tiễn đất nước
đặt ra để định hướng tư tưởng và thực tiễn, ngay cả trên nhiều vấn đề rất cơ
bản. Lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, vào chế độ có phần giảm sút vì
bất bình trước những bất công xã hội.
Tình hình đó đã làm
khối đại đoàn kết dân tộc tuy đã được củng cố một bước song chưa bền chặt và
đang đứng trước những thách thức mới, những nguy cơ tiềm ẩn; mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân tuy đã chăm lo củng cố song bắt đầu xuất hiện những
hiện tượng không thể xem thường. Các thế lực thù địch đã kích động các dân tộc
thiểu số đi theo tiếng gọi của thần thánh hoặc lịch sử, lợi dụng tín ngưỡng tôn
giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội. Đối với người dân tộc thiểu số, họ luôn bị tư tưởng hẹp
hòi kích động, dẫn đến nhận thức sai lệch trong một số vấn đề như: họ phải có
đức tin riêng, có cuộc sống riêng, người Kinh là những kẻ cướp đất, cướp miếng
ăn của họ. Từ cách nhìn sai lệch dễ nảy sinh quan điểm sai trái, những yếu tố
tâm lý nghi kỵ, dân tộc hẹp hòi.
Do sự nhận thức yếu kém
cộng với sự kích động thù địch trong và ngoài nước, một số đồng bào dân tộc ở
các tỉnh Tây Nguyên đã gây mất trật tự trị an, đập phá cơ sở vật chất, chống
lại và hành hung người thi hành công vụ; một số người còn trốn, đi theo Fulro
ra nước ngoài làm tay sai cho chúng. Đồng
bào ở các vùng chiến lược về an ninh, quốc phòng ở nước ta chủ yếu là đồng bào
theo đạo, người dân tộc thiểu số, có trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế
còn gặp nhiều khó khăn. Đây là những địa bàn trọng yếu nhưng hệ thống chính trị
cơ sở ở một số nơi còn yếu kém nên đã trở thành một trong những điểm yếu để các
thế lực thù địch tác động mạnh bằng chiến tranh tâm lý.
Ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch thông
qua việc truyền đạo trái phép, các tổ chức phi chính phủ đã mị dân bằng những
khẩu hiệu có liên quan sát thực đến đời sống của nhân dân như “đói cho ăn, đau
cho thuốc, chết cho hòm,” “máy bay của Liên hợp quốc về Buôn Ma Thuột đón đồng
bào sang Mỹ hưởng cuộc sống sung sướng”…
Sự kiện
đồng bào Mông ở Mường Nhé vừa qua cũng có sự tác động của các đối tượng phản
động. Trong khi đó, một số nơi do
bất bình trước những khó khăn, những cách làm sai trái của một số cán bộ nên
phản ứng tập thể, gây mất an ninh trật tự ở nông thôn, an ninh đô thị, thậm chí
kéo dài như tranh chấp, khiếu kiện, đình công, lãn công… Do tác động nhiều mặt, trong xã hội đã xuất hiện nhiều
hiện tượng như tầm thường văn hóa, chạy theo lối sống sinh hoạt văn hóa lai
căng, thác loạn, dung tục, xa rời văn hóa truyền thống. Một số tác phẩm văn hóa
có tư tưởng phủ định lại lịch sử, nhận thức sai về văn học, nghệ thuật.
Một số đầu sách có nội
dung phức tạp, xuyên tạc lịch sử văn học Việt Nam vẫn được nhập khẩu, phát
hành. Trên thị trường băng đĩa nhạc xuất hiện hàng loạt băng đĩa đồi trụy, phản
động được lưu hành. Hàng loạt thông tin xâm nhập vào không kiểm chứng, dẫn đến
nhận thức sai lệnh thông tin và hình thành nên quan điểm sai trái. Một số báo
đưa tin, bài không trung thực, thiếu định hướng tư tưởng gây ảnh hưởng xấu
trong dư luận.
Trong khi đó, một số cơ
quan thông tấn báo chí nước ngoài (AFP, Reuter, BBC, VOA) đưa các tin, bài vu
cáo ta vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Không ít cán bộ, đảng viên và một
bộ phận quần chúng nhân dân đã đọc, nghe những tác phẩm này, không phân biệt
đúng sai, nhiều cán bộ đảng viên đã biểu hiện dao động, mất lòng tin và suy
thoái về chính trị. Tư tưởng cơ hội
gấy nguy hại nghiêm trọng tới sự vững mạnh về chính trị và trong sạch về tổ
chức của Đảng, kể cả bản thân vận mệnh của Đảng và đất nước. Các thế lực thù
địch đều rất quan tâm lôi kéo tầng lớp trí thức, văn nghệ sỹ, thanh niên, học
sinh, sinh viên vì đây là lực lượng hùng hậu, là đội ngũ quan trọng trong xã
hội, nhất là trí thức, lớp trẻ. Chúng
coi đó là hướng hoạt động có tính chiến lược nhằm chuyển hóa tư tưởng của thế
hệ điều hành đất nước trong tương lai. Những thế hệ sau 1975 đã quên hoặc chưa
từng nếm trải những khổ cực trong chiến tranh do đó dễ bị thao túng, lôi kéo.
Do ảnh hưởng của các thế lực thù địch cùng với tác động của một số yếu tố khách
quan, một số sinh viên viết thư nói xấu chế độ.
Điển hình là một sinh viên Học viện Quan hệ quốc tế đã viết cảm tưởng lưu lại triển lãm do Đại sứ quán Mỹ tổ chức “cuộc kháng chiến kháng Mỹ cứu nước là cuộc chiến huynh đệ tương tàn, Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, thanh niên không được quyết định hướng đi và lựa chọn người lãnh đạo của mình hoặc tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại, chỉ có quyền được nghe những lời rao giảng đạo đức, chính trị giả tạo, ngụy biện.”
Điển hình là một sinh viên Học viện Quan hệ quốc tế đã viết cảm tưởng lưu lại triển lãm do Đại sứ quán Mỹ tổ chức “cuộc kháng chiến kháng Mỹ cứu nước là cuộc chiến huynh đệ tương tàn, Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, thanh niên không được quyết định hướng đi và lựa chọn người lãnh đạo của mình hoặc tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại, chỉ có quyền được nghe những lời rao giảng đạo đức, chính trị giả tạo, ngụy biện.”
Có một số cán bộ, đảng viên, trí thức cũng
ngộ nhận, phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, thậm chí có người còn đòi xóa
bỏ nguyên tắc này. Họ cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ nay đã lỗi thời, nó
chỉ thích họp với hoạt động của Đảng khi chưa dành được chính quyền, còn hoạt
động bí mật hoặc lãnh đạo chiến tranh, rằng thực hiện tập trung dân chủ là
nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong xã hội, sẽ không
có dân chủ, không có nhân đạo. Họ cho rằng định hướng xã hội chủ nghĩa là giáo điều,
sách vở, xuất phát từ định đề giai cấp chứ không xuất phát từ thực tiễn Việt
Nam. Theo họ, phải từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa thì mới phù hợp với thực
tế đất nước, xu thế với thời đại. Họ cho rằng quan hệ sản xuất mà chúng ta đang
xây dựng chỉ là phương tiện để phát triển sản xuất. Họ cho rằng chúng ta chủ
trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bằng mọi giá, nên lực lượng
sản xuất yếu kém, trì trệ.
Một số người cho rằng không nên phân chia
nền kinh tế theo tiêu chí quan hệ sản xuất mà lâu nay vẫn làm, như kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo họ, cách phân chia đó dẫn đến việc phân biệt đối
xử giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, không có lợi cho việc phát
huy tiềm năng của các thành phần kinh tế khác. Thay vào đó, nên phân chia nền
kinh tế theo tiêu chí nhỏ, vừa và lớn. Họ cho rằng, chỉ bằng cách xóa bỏ mọi
dấu hiệu quan hệ xã hội của sản xuất thì mới có sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế. Một số đối tượng đã
xoay chiều, quay quắt, phủ định truyền thống, nêu ra những luận điệu quái gở
như “các nhà lãnh đạo Việt Nam cứ mãi ngây thơ tin vào sự đồng lòng xả thân cho
một ý thức hệ vu vơ” (Nguyễn Thanh Giang), “cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước
như mọi người ngộ nhận, đó là cuộc đụng độ giữa hai thế lực hiếu chiến;” “dưới
chiêu dụ của những lời lẽ hào hoa, dân tộc Việt bị xé làm đôi, một cách vô thức
đã tự nguyện biến thành hai đội quân đánh thuê cho hai hệ thống chính trị đối
nghịch; một cách vô thức biến giang san cha ông ta thành chiếc cối xay thịt
khổng lồ” (Dương Thu Hương).
“Cây muốn lặng, gió chẳng đừng,” Đảng ta,
nhân dân ta luôn mong muốn một không khí hòa bình để xây dựng một cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc nhưng các thế lực thù địch không để chúng ta yên. Chúng
thường xuyên nhiều thủ đoạn để chống phá chúng ta. Vì vậy, đấu tranh chống
quan điểm sai trái như một nhiệm vụ tất yếu chúng ta cần làm và nhất định phải
làm thật tốt. Để thực hiện được điều đó, cần nhận rõ các dạng quan điểm sai
trái để có những đối sách phù hợp. Yêu cầu chung nhất của việc đấu tranh chống
quan điểm sai trái chính là làm tốt công tác tư tưởng trong Đảng và toàn dân
bằng cách tuyên truyền, tổ chức, giáo dục hướng tới sự thống nhất tư tưởng và
thống nhất hành động trong toàn xã hội.
Hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định
công tác đấu tranh chống quan điểm sai trái trực tiếp phục vụ cho việc lãnh đạo
thực hiện những mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng. Đây là nhiệm vụ đặc
biệt, cần có sự phối hợp đồng bộ, chỉ đạo chặt chẽ, huy động năng lực và trí
tuệ của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính trị nhằm giải quyết những vấn
đề nảy sinh trong nhận thức tình cảm, tư tưởng của nhân dân. Đấu tranh chống quan
điểm sai trái cũng chính là sự khẳng định lập trường của Đảng và Nhà nước ta
trước những biến động phức tạp trên thế giới và trong nước, từ đó củng cố nhận
thức chính trị, giữ vững thế trận lòng dân, đưa sự nghiệp cách mạng tới thắng
lợi hoàn toàn./.
Văn Trường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét