Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

“HẠ BỆ THẦN TƯỢNG HỒ CHÍ MINH” - THỦ ĐOẠN CHÍNH TRỊ NGUY HIỂM CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Chủ tịch Hồ Chí Minh - người con ưu tú nhất của dân tộc, linh hồn của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX; người khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Người đã cùng Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước làm nên Cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử và chống lại những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất thời đại, giành lại độc lập dân tộc, các quyền công dân và quyền con người cho nhân dân ta, mở ra giai đoạn mới cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Thế nhưng, các thế lực thù địch lại ra sức xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp, đạo đức của Người, với tham vọng “đánh đổ huyền thoại Hồ Chí Minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật phản ánh một phần tất yếu của sự phát triển dân tộc Việt Nam, sự nghiệp của Bác Hồ và sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một. Nên xuyên tạc phủ định Bác Hồ chính là xuyên tạc, phủ định lịch sử dân tộc Việt Nam. Kẻ thù âm mưu làm sụp đổ và hạ bệ “thần tượng Hồ Chí Minh”, để thực hiện mục đích thâm hiểm là làm mất giá trị văn hóa nền tảng, tiến tới làm cho Việt Nam đi theo một con đường khác.
Các thế lực thù địch cố tình tuyên truyền, xuyên tạc: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự ảo tưởng; không có tư tưởng Hồ Chí Minh trên thực tế…”.
Kẻ thù tấn công trực diện rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người giỏi cổ kim Đông Tây ở nước ngoài rồi bắt chước, chứ không có sáng tạo tư tưởng gì hết, chẳng có tư tưởng gì đặc sắc cao sâu cả. Hồ Chí Minh không phải là người sáng tạo lý luận tư tưởng. Kẻ thù cố tình xuyên tạc rằng, lí do để Đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh và đề cao Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì những năm 1988- 1990, hệ thống các nước CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; câu khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác- Lê nin bách chiến bách thắng” đã mất hoàn toàn giá trị. Nên Đảng cộng sản Việt Nam đề cao và ghép tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lê nin với hàm ý rằng bên châu Âu người ta thất bại, còn chúng tôi thành công và chúng tôi có quyền lãnh đạo vĩnh viễn là hợp lý là nhờ có Tư tưởng Hồ Chí Minh…Thậm chí, họ còn cho rằng nếu trong cách mạng và kháng chiến, Việt Nam mà có những nhà lý luận, nhà tư tưởng thì đó là là Tổng bí thư Trường Chinh, là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chứ không phải là Hồ Chí Minh. Họ nhấn mạnh Hồ Chí Minh chỉ là người có tài tập hợp lực lượng, là người hành động giỏi, xuất sắc.
Một lần nữa chúng ta khẳng định sự tồn tại khách quan và giá trị to lớn của Tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đoàn kết một lòng, bằng ý chí, quyết tâm giữ gìn sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập, tự do trường tồn của dân tộc, đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Đồng thời khẳng định một cách chắc chắn rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ là “ảo tưởng”, bởi giá trị lý luận và thực tiễn của những quan điểm khoa học và cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm, minh chứng là hoàn toàn đúng đắn. 
Nói về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và những cống hiến của Người đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của Việt Nam và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Rõ ràng, sự đánh giá, khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc của UNESCO, của các tổ chức khoa học và những nhà hoạt động chính trị, những học giả có uy tín trên thế giới, chắc hẳn không chỉ “dựa vào cảm tính” hay chỉ là sự “ảo tưởng”.
Ỏ một góc độ khác, các thế lực thù địch âm mưu xuyên tạc rằng: Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác- Lê nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, là nguyên nhân gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" suốt mấy chục năm.
Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ lý luận xuyên tạc rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh “du nhập” chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì chủ nghĩa Mác- Lê nin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc. Kẻ thù công khai xuyên tạc, nếu Hồ Chí Minh không đưa Chủ nghĩa Mác- Lê nin vào áp dụng ở Việt nam thì đâu dẫn đất nước đến hai cuộc “nội chiến”, nếu để đất nước dưới sự “cai trị” của Pháp và Mĩ thì Việt Nam hôm nay đã giàu có và phát triển mạnh mẽ. Chúng rêu rao các môn khoa học Mác- Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam đang đi ngược xu thế toàn cầu hóa và do đó không thể đi ra được quốc tế. Còn chủ nghĩa Mác- Lê nin giống một thứ môn tâm lý học chứ không phải môn khoa học, còn Hồ Chí Minh rõ ràng là một nhà mưu lược chứ không phải là một nhà tư tưởng, thật sự không tồn tại cái mà Đảng gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh.
          Chúng ta khẳng định rằng, chính nhờ trí tuệ thiên tài, nhờ lòng yêu nước cháy bỏng và khát vọng độc lập tự do mãnh liệt mà Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam mà chúng ta mới có đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất như ngày hôm nay.
Kẻ thù âm mưu cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi Chủ nghĩa Mác- Lê nin, nhằm công phá và phủ nhận  nền tảng tư tưởng của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Kẻ thù rất thâm độc khi cố tình tuyên truyền học thuyết Mác – Lê-nin đã lỗi thời, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là “đáng giá”, và rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, bởi trong đó đã bao hàm chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thậm chí còn cao hơn chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Chúng ngụy biện rằng, bây giờ học thuyết Mac- Lê nin đã không còn phù hợp thực tiễn, nên Việt Nam chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao chủ nghĩa Hồ Chí Minh là đủ. Các quan điểm sai trái trên đều rất nguy hiểm thâm độc, nhất là cố tình tách rời mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Bởi, quan điểm này thể hiện tính ngụy biện, không phủ nhận sạch trơn nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng tầm một cách giả tạo tư tưởng Hồ Chí Minh dễ làm cho một số người cả tin, ngộ nhận. Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, vì tách tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chủ nghĩa Mác- Lê nin sẽ làm suy yếu tư tưởng Hồ Chí Minh và thực chất là để phủ định chủ nghĩa Mác- Lê nin, tiến tới phủ định chính ngay tư tưởng Hồ Chí Minh.
          Chúng ta thấy rằng những quan điểm tách rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin đều sai trái, thâm độc. Vì những quan điểm đó không phải là ca ngợi, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng giá trị đích thực, vốn có trong tư tưởng của Người. Trái lại, kẻ thù muốn cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc lý luận chủ yếu của tư tưởng này là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguy hiểm hơn, luận điểm sai trái đó là cùng một lúc nhằm ba mục tiêu: phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; theo đó, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng làm suy yếu và đi đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Chúng ta thấy rằng khởi nguồn của Tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác- Lê nin, nên Tư tưởng Hồ Chí Minh phải luôn đặt trong mối quan  hệ biện chứng, khăng khít, không thể tách rời với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Bản chất của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là khoa học và cách mạng, “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, không thể tách rời mối quan hệ vốn có giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin và ngược lại.
Các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự sao chép máy móc chủ nghĩa Mác- Lê nin và sao chép tư tưởng của người khác.
Kẻ thù tấn công rằng những quan điểm của Hồ Chí Minh rời rạc và chung chung chứ không phải là hệ thống, không đưa đến một chương trình hành động nào. Chúng cho rằng tư tưởng phải nằm trong một hệ thống triết học hoặc một hệ thống tư duy, ông Hồ không đưa ra được một hệ thống mới. Kẻ thù đưa ra dẫn chứng là Bác Hồ gần như không có tác phẩm nào chuyên bàn về lý luận, tư tưởng như Các Mác, Lênin, Mao Trạch Đông. Tuy rằng Toàn tập Hồ Chí Minh dài nhiều vạn chữ nhưng chỉ là do Bác đọc nhiều, nhớ nhiều, giỏi chọn những mẩu tư tưởng của người khác xưa nay và Đông - Tây rồi đem ra dùng đúng lúc, gây ấn tượng và đạt hiệu quả tuyên truyền giáo dục cao. Kẻ thù rêu rao rằng: Ông Hồ hay trích dẫn ca dao, tục ngữ, thường nhắc lại những câu nói của người xưa, vì ông không dẫn nguồn nên các thế hệ học giả vốn quen lừa dối cứ tưởng ông là người đầu tiên đưa ra những quan điểm đó.
 Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rằng: Người lựa chọn Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là vì học thuyết đó đã trả lời cho Người câu hỏi phải làm gì và làm  như thế nào để cứu nước và giải phóng dân tộc. Đồng thời, Người sẵn sàng chọn lọc, học hỏi tất cả những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, không phân biệt phương Đông hay phương Tây, kể cả những mặt tích cực của tôn giáo nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và Tuyên bố vào ngày mồng 2-9-1945 đã trích Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 là một ví dụ. Người nói: Học tập Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người, và đối với bản thân mình,…là để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”.
Chính vì vậy, chúng ta kiên quyết khẳng định rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển đó đã bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong thời gian gần đây, kẻ thù tập trung xuyên tạc về đời tư, nhằm bêu xấu, hạ bệ thần tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời gian qua, kẻ thù trắng trợn phát tán các loại sách và phim phản động, nhằm xuyên tạc thân thế, sự nghiệp và tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chúng cố tình xuyên tạc bản thân Bác và Đảng ta đã không trung thực về “ngày sinh” “ngày mất” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ lý giải hiện tượng lòng dân và ý dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí Minh là do sùng bái cá nhân…Một nội dung mà các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc, bôi nhọ là chuyện Bác Hồ có vợ có con hay không?.
Kẻ thù cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ chuyệnđời tư” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Người. Chúng cho rằng Bác Hồ không phải là người đấu tranh giải phóng con người, đấu tranh giải phóng phụ nữ, chính là người bội bạc với phụ nữ. Thậm chí chúng còn trắng trợn khi xuyên tạc Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai người vợ Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam…Có nhà nghiên cứu ở nước ngoài đã viết bài đề cập về cuộc sống vợ chồng Hồ Chí Minh với cô gái tên là Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Rồi trong một tài liệu khác, kẻ thù tung tin Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai từng là vợ chồng trong thời gian ở Nga và Trung Quốc….Thậm chí, câu chuyện về danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó.
Thế nhưng, trên thực tế, các tài liệu phản động trên đây đều không có chứng cứ rõ ràng, đều không thuyết phục. Là thế hệ trẻ, sinh ra và lớn lên sau chiến tranh, với tất cả tấm lòng thành kính với Bác, tôi thấy rằng, trong cuộc đời của Bác có tình yêu nam nữ thì cũng là lẽ thường tình. Thời trai trẻ, Bác là một thanh niên thư sinh, thông minh, giàu tình cảm với đất nước, quê hương, giàu tình nhân ái với con người, nên chuyện Bác Hồ có tình cảm với phụ nữ và người phụ nữ trong và ngoài nước có tình cảm với Bác cũng là điều bình thường, không có gì làm to chuyện cả. Vì Bác cũng là một con người bình thường, bằng da, bằng thịt, có tình cảm yêu gét rõ ràng, chứ không phải là “thần thánh”. Bản thân tôi nhận thức rằng nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì cũng không làm mất đi tấm gương đạo đức cao đẹp của Bác, không làm mất đi sự kính trọng và tình cảm sâu sắc trong tôi và nhân dân dành cho Bác. Bởi cho dù có vợ, con thì sự hi sinh tình cảm gia đình nhỏ, tình cảm gia đình lớn (cha mẹ, anh chị em ruột thịt), tình cảm quê hương và công lao của Bác dành cho dân tộc Việt Nam là quá lớn.
Nhưng cần khẳng định một cách chắc chắn rằng, Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con. Lúc trai trẻ thì Bác phải đi khắp các châu lục để tìm con đường cứu nước, không có thời gian dành cho hạnh phúc riêng tư. Trong suốt hơn 30 năm bôn ba hải ngoại, Bác phải lao động đủ thứ nghề để kiếm sống, để tìm đường cứu nước, để tránh sự truy lung gắt gao của mật thám và các tổ chức phản động. Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng thì Bác đã hơn 50 tuổi, rồi từ đó tất cả thời gian và trí tuệ của Người dành cho sự nghiệp lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ít lần nói về  khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Bác đã từng khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó. Thực tế lịch sử đã cho thấy, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt việc nước lên trên hết, lên trên việc riêng và việc nhà. Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mư­ời của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt đư­ợc mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”. Năm 1948, trong thời gian kháng chiến chống Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, nhiều người đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”
Ngày 9-11-1950, ở chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được tin anh trai Nguyễn Sinh Khiêm qua đời ở quê (25-8 năm Canh Dần, tức là ngày 6-10-1950 dương lịch). Ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời, nhưng mãi hơn một tháng sau Hồ Chí Minh mới nhận được tin. Trong ánh chiều tà của núi rừng đại ngàn Việt Bắc, ngập dòng lệ, Hồ Chí Minh thảo một bức điện gửi về quê: “Gửi họ Nguyễn Sinh. Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.Than ôi! Tôi xin chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nướcNgày 9 tháng 11 năm 1950 Chí Minh”.
Đọc những dòng thư trên lòng chúng ta xúc động bồi hồi vì thương, vì kính trọng Bác. Như vậy là, chữ hiếu và chữ đệ ở đây được Hồ Chí Minh đặt dưới “việc nước”. Vì việc nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận tội “bất đệ”. trước linh hồn của người anh trai. Việc nước là trên hết thảy, việc riêng và việc nhà phải tuân thủ và phải chịu sự hy sinh vì việc nước. Cái tôi cá nhân và hạnh phúc riêng tư của chính mình bao giờ cũng được Hồ Chí Minh đặt thấp hơn việc chung của Tổ quốc, của nhân dân.
Sự hi sinh cao cả ấy làm cho tình cảm và lòng kính trọng của nhân dân dành cho Bác Hồ đến một cách tự nhiên chứ không hề áp đặt, khiên cưỡng hay “sùng bái cá nhân” như kẻ thù rêu rao. Vì bản thân tôi và bao người dân Việt nam luôn nhìn nhận Bác rất gần gũi, giản dị, một con người như bao người Việt Nam khác, chứ không xem Bác như một vị thánh, vị thần. Nhưng điều làm bản thân tôi và cả dân tộc Việt Nam và nhân loại kính yêu Bác là bởi đạo đức cách mạng trong sáng, bởi nghị lực phi thường, bởi trí tuệ mẫn tiệp và chiều sâu văn hóa trong Bác. Bởi suốt cả cuộc đời mình Bác đã dành trọn cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Tóm lại, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có tính bền vững của cả dân tộc Việt Nam. Giá trị của Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn kết chặt chẽ với truyền thống vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam, gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong hành trình thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Trong giai đoạn hiện nay, các thế lực thù địch âm mưu đánh vào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tức là đánh vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam; kẻ thù âm mưu làm sụp đổ thần tượng Hồ Chí Minh, tức là làm đánh mất giá trị văn hóa và làm cho Việt Nam đi theo một con đường khác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam. Bảo vệ và phát huy giá trị Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới hiện nay là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đặc biệt, trước âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ, hòng “hạ bệ” thần tượng Hồ Chí Minh, đòi hỏi chúng ta phải có những nội dung, giải pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả, để hình ảnh, tấm gương, đạo đức, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi trường tồn và luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam tiến về phía trước.

Văn Toàn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét