Thứ Năm, 4 tháng 10, 2018

Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng



Tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) là một chức năng cơ bản của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, vừa thể hiện sâu sắc bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, vừa cho thấy ý thức, trách nhiệm chính trị của quân đội trong việc quán triệt, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Quân đội ta là quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Chức năng cơ bản đó của QĐND Việt Nam được xác lập quy định ngay từ ngày đầu thành lập và được khẳng định, phát huy trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành hơn 70 năm qua. Bởi vậy, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, Quân đội ta luôn chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bằng hình thức, biện pháp phù hợp, đúng định hướng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

I. Vì sao quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tế

1. Cơ sở lý luận

Thứ nhất, quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tếlà thực hiện Lời dạy của Bác Hồ – Người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang: Quân đội phải chiến đấu giỏi, công tác giỏi và lao động sản xuất giỏi; “cái gì có lợi cho nhân dân thì cố gắng để làm cho tốt”; thực hiện tốt phương châm “vì nhân dân phục vụ !”; thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao phó cho quân đội.
Thứ hai, quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tếlà thực hiện ba chức năng của Quân đội: là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, đã được ghi vào các Văn kiện Đảng, Nhà nước; đã được Đảng, Nhà nước, nhân dân và một số chuyên gia nước ngoài, thừa nhận tính hiệu quả của Quân đội ta khi tham gia lao động, xây dựng kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tếlà hiện thực hóa quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo chính sách “ngụ binh ư nông” của ông cha ta qua hàng ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước; là sự cụ thể hóa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mà Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội V (năm 1982) đến nay.
Thứ tư, quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tếlà góp phần làm ra của cải vật chất, trước hết là nâng cao đời sống cho bộ đội, không ngừng cải thiện, nâng cao chất lương bữa ăn, bồi dưỡng sức khỏe bộ đội; tu bổ nơi ở, nơi làm việc, củng cố trận địa, thao trường, bãi tập; qua đó, phát triển KT-XH, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là làm cho Quân đội ta mạnh lên; góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Tóm lại, quân đội ta tham gia sản xuất, phát triển kinh tếkhông phải là ý muốn chủ quan mà là sự quy định của điều kiện lịch sử và bản chất, truyền thống, chức năng của quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, đã được lịch sử hơn 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta khẳng định; là nhu cầu thực tế của xã hội, yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao cho Quân đội. Những người có quan điểm sai trái, đối lập với Đảng, Nhà nước như đã nêu trên là nhằm chống Đảng, Nhà nước, Quân đội ta, là hướng đến cái đích thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, thực hiện “dân sự hóa quân đội” cần phải phê phán, bác bỏ.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mặc dù chiến tranh ác liệt, nhưng Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích cực tăng gia, sản xuất cải thiện đời sống bộ đội; tham gia sản xuất xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, xây dựng căn cứ hậu cần tại chỗ trên các vùng chiến lược, thực hiện tốt chủ trương, đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam” của Đảng. Sau khi đất nước thống nhất, quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, tham gia đắc lực vào hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển KT-XH, nhất là trên các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

II. Quân đội trong tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng

1. Thành tựu
Nhìn lại chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quán triệt quan điểm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, các đơn vị Quân đội đã tích cực lao động sản xuất, đảm bảo “thực túc binh cường”, thiết thực cải thiện đời sống của bộ đội; đặc biệt, các cơ sở quân giới đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích cực nghiên cứu, cải tiến, chế tạo hàng chục triệu tấn vũ khí, đạn dược, kịp thời đáp ứng yêu cầu tác chiến của lực lượng vũ trang và sự phát triển của chiến tranh nhân dân trên các chiến trường.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, gần 08 vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã chuyển sang làm nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, trực tiếp tham gia xây dựng những công trình trọng điểm của đất nước, như: Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Đại thủy nông Bắc Hưng Hải,v.v.
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Quốc phòng đã bàn giao 29 nông trường và gần 04 vạn cán bộ, chiến sĩ, công nhân cho Bộ Nông nghiệp quản lý; đồng thời, chuyển hướng nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế vào trọng tâm xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần tại chỗ trên chiến trường miền Nam, nhất là các địa bàn chiến lược Khu 5, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Đông Nam Bộ... Trong giai đoạn này, Bộ Quốc phòng đã thành lập 20 trung đoàn tổ chức sản xuất, cung cấp hậu cần cho các chiến trường; đặc biệt, lực lượng bộ đội Trường Sơn đã xẻ núi, bạt đèo, xây dựng hàng vạn ki-lô-mét đường bộ, đường sông, đường ống, mở tuyến vận tải chiến lược chi viện cho chiến trường miền Nam và nước bạn Lào, Cam-pu-chia, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), Quân đội là lực lượng xung kích hàn gắn vết thương chiến tranh, tham gia phát triển kinh tế - xã hội với gần 28 vạn cán bộ, chiến sĩ chuyển sang thực hiện nhiệm vụ quan trọng này và đã hoàn thành nhiều chương trình, dự án trọng điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên địa bàn cả nước.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đảng được Đại hội VI đề ra: “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, ngày 26-4-2002, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) đã ban hành Nghị quyết 71-NQ/ĐUQSTW “về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội - Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội”; tiếp đó là Nghị quyết 520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012 về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”, Nghị quyết 425-NQ/QUTW, ngày 18-5-2017 của Quân ủy Trung ương về “Sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo sâu sát của Bộ Quốc phòng, Quân đội đã phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Nổi bật là, Quân đội đã tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, đảo, trong đó trọng tâm là triển khai xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng.
Các doanh nghiệp Quân đội không ngừng đổi mới, phát triển, hội nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh kết hợp với thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Sau khi sắp xếp lại, các doanh nghiệp Quân đội tiếp tục giữ vững sự ổn định, phát triển, tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả tăng lên, giữ gìn và phát triển tiềm lực quốc phòng, bảo đảm tốt việc làm và tăng thu nhập của người lao động. Doanh nghiệp Quân đội có thương hiệu, chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn ra nước ngoài ngày càng nhiều, trở thành đối tác kinh tế quốc tế có uy tín, góp phần đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp quân đội đã và đang khẳng định rõ vị thế trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển kinh tế vĩ mô, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo đảm an sinh xã hội.
Các đơn vị thường trực, đơn vị sự nghiệp có thu, cùng với đặt trọng tâm vào thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, đã chủ động tổ chức bộ máy, tận dụng năng lực dôi dư để tham gia sản xuất kinh tế gắn với nhiệm vụ chuyên môn, góp phần cung cấp nguồn nhân lực, công nghệ và dịch vụ có chất lượng cho xã hội. Trong đó, nhiều đơn vị đảm bảo được phần lớn chi phí thường xuyên, góp phần tăng cường các hoạt động sự nghiệp, cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng và người lao động. Hoạt động kinh tế đối ngoại, xúc tiến đầu tư và thương mại được đẩy mạnh.
Công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng đảm bảo chặt chẽ, đúng mục đích; đối với đất quốc phòng chưa sử dụng ngay cho nhiệm vụ quốc phòng, được tận dụng vào hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế đảm bảo thực hiện đúng quy định, lộ trình và kịp thời chấn chỉnh những sai sót.
Sáng ngày 12/7/2017, phát biểu tại buổi làm việcvới Quân cảng Sài Gòn - Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, thuộc Quân chủng Hải quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đại tướng Ngô Xuân Lịch- Bộ trưởng BQP đã khẳng định: quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ bản, nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, thể hiện bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hơn 70 năm trưởng thành, phát triển của quân đội ta cho thấy quân đội ta luôn hoàn thành nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và cũng là đội quân lao động sản xuất, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. 
Đại tướng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh: quân đội tham gia xây dựng kinh tế là kết hợp, phục vụ nhiệm vụ xây dựng quốc phòng, củng cố sức mạnh quốc phòng, gia tăng tiềm lực của quốc gia, tích cực góp phần phát triển tính tự chủ của đất nước trong trang bị khí tài quân sự, quốc phòng và trực tiếp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. 
Những kết quả đạt được của Quân đội trong thực hiện nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế có ý nghĩa quan trọng, không những góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, cải thiện đời sống của bộ đội, công nhân và viên chức quốc phòng, người lao động, mà còn đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước; qua đó, thể hiện sâu sắc bản chất, truyền thống và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trên “mặt trận lao động sản xuất”, củng cố niềm tin của nhân dân, của Đảng và Nhà nước đối với Quân đội.
          2. Hạn chế
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, Quân đội vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót, như: nhận thức của một số cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế chưa đầy đủ; trách nhiệm của một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo có mặt còn hạn chế; cơ chế quản lý, mục tiêu xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, tiến độ xây dựng chậm so với quy hoạch đã được phê duyệt; việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội và hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa thường xuyên và chặt chẽ; hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số doanh nghiệp đạt thấp; tiến độ cổ phần hóa còn chậm so với yêu cầu; công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng vào mục đích kinh tế của một số cơ quan, đơn vị chưa chặt chẽ…
Thực tiễn hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của quân đội và những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc huy động quân đội tham gia xây dựng kinh tế; cho thấy Quân đội ta luôn quán triệt, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, vừa làm tròn vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH, vừa tham gia tích cực, có hiệu quả vào công cuộc đó. Mặc dù còn những khuyết điểm, thiếu sót, song với những kết quả quan trọng đạt được trên “mặt trận lao động sản xuất” những năm qua cho thấy, quân đội đã thực sự trở thành một nguồn lực của đất nước trong phát triển KT-XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng-an ninh, KT-XH trên các địa bàn chiến lược, nơi biên giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc. Thông qua sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã góp phần điều chỉnh lại lực lượng sản xuất trên các vùng, miền, phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH và mục tiêu quốc phòng, tạo nên thế trận KTQP vững mạnh trên các địa bàn chiến lược, nơi phên giậu của đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; tạo ra nguồn của cải vật chất đáng kể cho xã hội, nguồn thu bổ sung cho ngân sách quốc phòng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng cường nguồn lực cho phát triển. Đồng thời, tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc,...
III. Một số gải pháp chủ yếu
1. Đặc điểm tình hình
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục diễn biến rất phức tạp, khó lường, khó dự báo, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, tác động sâu sắc đến môi trường, quan hệ quốc tế, khu vực và Việt Nam. Đối với nước ta, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; tình hình chính trị - xã hội ổn định; kinh tế tiếp tục tăng trưởng; quốc phòng, an ninh được củng cố; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, kinh tế còn nhiều khó khăn, tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định; các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội, tăng cường tuyên truyền xuyên tạc, hạ thấp uy tín Quân đội, chia rẽ Quân đội với Đảng, Quân đội với nhân dân, Quân đội với Công an... Trước tình hình đó, Quân đội nhân dân cùng với việc tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước.
          2. Giải pháp chủ yếu
Một là, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân và viên chức quốc phòng, người lao động đối với nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội.
Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công nhân và viên chức quốc phòng, người lao động; từ đó, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Nội dung giáo dục cần tập trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, quan điểm của Đảng, chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, cũng như vai trò quan trọng của Quân đội trong việc tham gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Toàn quân cần nhận thức sâu sắc: tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ bản, nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, thể hiện bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách đảm bảo cho quốc phòng hạn hẹp, việc Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là cần thiết, quan trọng. Nhưng, Quân đội không làm kinh tế một cách đơn thuần, mà luôn gắn với quốc phòng theo tư tưởng chỉ đạo: kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Công tác tuyên truyền giáo dục về nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội cần được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều biện pháp, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng loại hình đơn vị, doanh nghiệp. Qua đó, để bộ đội và nhân dân thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ này và thực chất của vấn đề Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; đồng thời, phản bác, làm thất bại mọi sự xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội, phản động nhằm vào Quân đội ta.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế.
Đây là vấn đề nguyên tắc và là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, đảm bảo cho mọi hoạt động tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội đúng định hướng chỉ đạo, đạt hiệu quả cao. Các đơn vị trong toàn quân, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết về quân đội tham gia sản xuất phát triển kinh tế-xã hội, trên cơ sở đó, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt bằng nhiều biện pháp đồng bộ, đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình thực hiện, các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội cần nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, thực hiện “Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội” mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định, chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng.
Đối với các đơn vị kinh tế - quốc phòng, doanh nghiệp Quân đội, trong thực hiện nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phải đồng thời coi trọng nhiệm vụ quốc phòng; khắc phục mọi biểu hiện, nhận thức lệch lạc kinh tế đơn thuần, không được để xảy ra tình trạng hoạt động kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động quân sự, quốc phòng và ngược lại.
Ba là, tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược.
Triển khai dự án khu kinh tế - quốc phòng là chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng, Nhà nước; đồng thời, là sự thể chế hóa quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong thực tiễn.
Thực tiễn hoạt động của các khu kinh tế - quốc  phòng đã khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Trong thời gian tới, cần tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng theo Quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, coi trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên hướng biển, đảo xa bờ, xây dựng một số mô hình điểm tại các khu kinh tế - quốc phòng đang hoạt động để rút kinh nghiệm, có giải pháp phù hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Các đoàn kinh tế - quốc phòng phải luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng khu kinh tế - quốc phòng để bảo đảm hoạt động đúng hướng, hiệu quả, sẵn sàng chuyển trạng thái khi có tình huống.
Bốn là, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Quân đội, gắn với giữ vững, nâng cao năng lực sản xuất quốc phòng.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị có liên quan cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước; trên cơ sở đó, tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 425-NQ/QUTW, trọng tâm là thực hiện tốt Đề án “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội đến năm 2020”. Trong đó, kiên quyết cổ phần hóa, thoái vốn triệt để đối với doanh nghiệp ít liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng; giải thể hoặc phá sản theo quy định của pháp luật đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả.
Các doanh nghiệp Quân đội cần rà soát, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với mô hình hoạt động; tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; đảm bảo dù sản xuất, kinh doanh ở đâu, lĩnh vực nào, cũng luôn chấp hành nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, giữ vững bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, thương hiệu doanh nghiệp Quân đội, phấn đấu trở thành những doanh nghiệp mạnh, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Cùng với đó, toàn quân tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng đất quốc phòng. Trong đó, đặc biệt chú trọng quản lý, giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất vào hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; quản lý đất quốc phòng tại các doanh nghiệp Quân đội và doanh nghiệp Quân đội thực hiện cổ phần hóa hoặc giải thể, phá sản trong quá trình sắp xếp, đổi mới.
Năm là, chủ động đấu tranh, phản bác các luận điểm sai trái, thù địch nhằm hạ thấp vai trò, uy tín, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Quân đội là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Do đó, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội, phản động luôn xác định Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu trọng điểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chúng. Để theo đuổi mục tiêu đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động tăng cường các hoạt động chống phá Quân đội ta bằng mọi hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Cùng với việc thúc đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu Quân đội, làm lung lạc niềm tin của nhân dân đối với “Bộ đội Cụ Hồ”. Đặc biệt, gần đây, các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc về Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, quản lý, sử dụng đất quốc phòng, với mục đích làm “nóng” dư luận xã hội, hiểu sai lệch hoặc không đầy đủ về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội.

IV. Đấu tranh chống quan điểm "Quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc"

Trong thời gian qua, lợi dụng Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) ra Nghị quyết về “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, một số trang mạng xã hội đã liên tiếp đăng tải những bài viết xuyên tạc, phủ nhận về vai trò của quân đội tham gia vào hoạt động kinh tế, đưa ra những luận điệu dưới dạng mật mờ như: “quân đội làm kinh tế – phúc và họa”, để hướng lái dư luận theo quan điểm sai trái rằng: “quân đội không nên làm kinh tế”.
Các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, chúng kêu gọi quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng cho rằng nếu quân đội tham gia hoạt động sản xuất kinh tế sẽ nảy sinh tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi và làm suy yếu sức mạnh quân đội. Hoặc cho rằng, nay đất nước đã phát triển, quân đội không phải làm kinh tế và ưu tiên tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu như quân đội các nước tư bản. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, phủ nhận chức năng, vai trò của quân đội từ bản chất.
Chúng ta phải hiểu rằng Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh là chủ trương chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tế-xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng-an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng-an ninh, quốc phòng-an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa bàn”. Tại Điều 68, Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Tại khoàn 3, Điều 5 (Nguyên tắc hoạt động quốc phòng), Chương 1 (Những quy định chung) của Luật Quốc phòng năm 2005 xã định: “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng; giữa tăng cường quốc phòng với phát triển kinh tế-xã hội”
Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội được Đảng và Bác Hồ giao, đó là “Đội quân chiến đấu, quân đội công tác và đội quân lao động sản xuất”, thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội. Nhìn lại chặng đường hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội, chúng ta hết sức phấn khởi tự hàng rằng, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả. Thông qua đó, khẳng định Quân đội ta không chỉ anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, mà còn rất cần cù, sáng tạo, hiệu quả trong lao động sản xuất. Những chiến công và thành tích của Quân đội trong thực hiện chức năng “Quân đội lao động sản xuất” - một yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân và đã góp phần làm sáng đẹp hơn hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới.
Từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới. Quân đội ta tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế đã thực sự trở thành một nguồn lực quan trọng của đất nước trong phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần gia tăng thêm tiềm lực quốc gia; củng cố vị thế độc lập, tự chủ của đất nước và công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, khí tài cho Quân đội; tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước thông qua sự hợp tác với bên ngoài; là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng, an ninh, kinh tế- xã hội trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc...
Trong khi đó, bản chất các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế của quân đội là thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, là kinh tế Nhà nước. Vì vậy, quân đội tham gia phát triển kinh tế là đúng pháp luật, cũng là đúng với đường lối, chủ trương của Đảng.
Từ những vấn đề nêu trên mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội cũng như mỗi người dân Việt Nam cần phải bản lĩnh, cảnh giác trước những luận điệu sai trái của thế lực thù địch. Luôn quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là đường lối quân sự, quốc phòng. Tích cực tham gia đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Nhận thức đúng chức năng, nhiệm vụ, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và phát huy những kinh nghiệm, kết quả đạt được, toàn quân tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới. Qua đó, làm sâu sắc thêm bản chất cách mạng, truyền thống của QĐND Việt Nam anh hùng, thiết thực góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Hồng Tuấn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét