Tham gia sản xuất,
xây dựng kinh tế, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân phát triển kinh tế-xã hội
(KT-XH) là một chức năng cơ bản của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, vừa thể
hiện sâu sắc bản chất, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, vừa cho thấy ý thức, trách
nhiệm chính trị của quân đội trong việc quán triệt, thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Quân đội ta là quân đội cách
mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Chức năng cơ bản
đó của QĐND Việt Nam được xác lập quy định ngay từ ngày đầu thành lập và được
khẳng định, phát huy trong suốt chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành
hơn 70 năm qua. Bởi vậy, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, Quân đội ta luôn chủ động, tích cực
tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bằng hình thức, biện pháp phù hợp,
đúng định hướng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
I. Vì sao quân đội tham gia sản
xuất, phát triển kinh tế
1. Cơ sở lý luận
Thứ
nhất, quân đội tham gia sản
xuất, phát triển kinh tếlà thực hiện Lời dạy của Bác Hồ – Người Cha thân yêu
của các lực lượng vũ trang: Quân đội phải chiến đấu giỏi, công tác giỏi và lao
động sản xuất giỏi; “cái gì có lợi cho nhân dân thì cố gắng để làm cho tốt”;
thực hiện tốt phương châm “vì nhân dân phục vụ !”; thực hiện nhiệm vụ chính trị
mà Đảng, Nhà nước giao phó cho quân đội.
Thứ
hai, quân đội tham gia sản
xuất, phát triển kinh tếlà thực hiện ba chức năng của Quân đội: là đội quân
chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, đã được ghi vào các
Văn kiện Đảng, Nhà nước; đã được Đảng, Nhà nước, nhân dân và một số chuyên gia
nước ngoài, thừa nhận tính hiệu quả của Quân đội ta khi tham gia lao động, xây
dựng kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh.
Thứ
ba, quân đội tham gia sản xuất,
phát triển kinh tếlà hiện thực hóa quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” của
dân tộc Việt Nam với sự vận dụng sáng tạo chính sách “ngụ binh ư nông” của ông
cha ta qua hàng ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước; là sự cụ thể hóa
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mà
Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội V (năm 1982) đến nay.
Thứ
tư, quân đội tham gia sản xuất,
phát triển kinh tếlà góp phần làm ra của cải vật chất, trước hết là nâng cao
đời sống cho bộ đội, không ngừng cải thiện, nâng cao chất lương bữa ăn, bồi
dưỡng sức khỏe bộ đội; tu bổ nơi ở, nơi làm việc, củng cố trận địa, thao
trường, bãi tập; qua đó, phát triển KT-XH, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; là làm cho Quân đội ta mạnh lên; góp phần củng cố tiềm lực quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Tóm
lại, quân đội ta tham gia sản xuất, phát triển kinh tếkhông phải là ý muốn chủ
quan mà là sự quy định của điều kiện lịch sử và bản chất, truyền thống, chức
năng của quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, đã
được lịch sử hơn 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng của Quân
đội ta khẳng định; là nhu cầu thực tế của xã hội, yêu cầu, nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước giao cho Quân đội. Những người có quan điểm sai trái, đối lập với
Đảng, Nhà nước như đã nêu trên là nhằm chống Đảng, Nhà nước, Quân đội ta, là
hướng đến cái đích thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, thực hiện
“dân sự hóa quân đội” cần phải phê phán, bác bỏ.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mặc dù chiến tranh ác liệt, nhưng Quân
đội ta luôn nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích cực tăng gia, sản xuất cải
thiện đời sống bộ đội; tham gia sản xuất xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, xây
dựng căn cứ hậu cần tại chỗ trên các vùng chiến lược, thực hiện tốt chủ trương,
đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam” của Đảng. Sau khi đất nước thống
nhất, quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, tham gia đắc lực vào hàn gắn
vết thương chiến tranh, phát triển KT-XH, nhất là trên các địa bàn vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo.
II. Quân đội trong tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp
phần phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng
1. Thành
tựu
Nhìn lại chặng đường xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của
Quân đội, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa
chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế bằng những hình
thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quán triệt quan
điểm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, các đơn vị Quân đội đã tích cực lao động
sản xuất, đảm bảo “thực túc binh cường”, thiết thực cải thiện đời sống của bộ
đội; đặc biệt, các cơ sở quân giới đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, tích
cực nghiên cứu, cải tiến, chế tạo hàng chục triệu tấn vũ khí, đạn dược, kịp
thời đáp ứng yêu cầu tác chiến của lực lượng vũ trang và sự phát triển của
chiến tranh nhân dân trên các chiến trường.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, gần 08 vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã chuyển sang làm nhiệm vụ sản
xuất, xây dựng kinh tế, trực tiếp tham gia xây dựng những công trình trọng điểm
của đất nước, như: Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Đại
thủy nông Bắc Hưng Hải,v.v.
Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ
Quốc phòng đã bàn giao 29 nông trường và gần 04 vạn cán bộ, chiến sĩ, công nhân
cho Bộ Nông nghiệp quản lý; đồng thời, chuyển hướng nhiệm vụ sản xuất, xây dựng
kinh tế vào trọng tâm xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần tại chỗ trên
chiến trường miền Nam, nhất là các địa bàn chiến lược Khu 5, Tây Nguyên, Tây
Nam Bộ, Đông Nam Bộ... Trong giai đoạn này, Bộ Quốc phòng đã thành lập 20 trung
đoàn tổ chức sản xuất, cung cấp hậu cần cho các chiến trường; đặc biệt, lực
lượng bộ đội Trường Sơn đã xẻ núi, bạt đèo, xây dựng hàng vạn ki-lô-mét đường
bộ, đường sông, đường ống, mở tuyến vận tải chiến lược chi viện cho chiến
trường miền Nam và nước bạn Lào, Cam-pu-chia, góp phần quan trọng vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975),
Quân đội là lực lượng xung kích hàn gắn vết thương chiến tranh, tham gia phát
triển kinh tế - xã hội với gần 28 vạn cán bộ, chiến sĩ chuyển sang thực hiện
nhiệm vụ quan trọng này và đã hoàn thành nhiều chương trình, dự án trọng điểm
kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên địa bàn cả nước.
Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, quán triệt sâu sắc và cụ
thể hóa đường lối đổi mới của Đảng được Đại hội VI đề ra: “Toàn dân xây dựng
đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”,
ngày 26-4-2002, Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) đã ban
hành Nghị quyết 71-NQ/ĐUQSTW “về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân
đội - Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
Quân đội”; tiếp đó là Nghị quyết 520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012 về “Lãnh đạo nhiệm
vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”,
Nghị quyết 425-NQ/QUTW, ngày 18-5-2017 của Quân ủy Trung ương về “Sắp xếp, đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội đến năm 2020 và
những năm tiếp theo”. Dưới sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo sâu
sát của Bộ Quốc phòng, Quân đội đã phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ
Hồ”, thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh
tế, phát triển đất nước. Nổi bật là, Quân đội đã tích cực tham gia xóa đói giảm
nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng
tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân trên các địa bàn chiến
lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, đảo, trong đó trọng tâm là triển
khai xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng.
Các doanh nghiệp Quân đội không ngừng đổi mới, phát triển,
hội nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh kết hợp với thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Sau khi sắp xếp lại, các doanh nghiệp Quân đội tiếp tục giữ
vững sự ổn định, phát triển, tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả tăng lên, giữ gìn và phát triển tiềm lực quốc phòng, bảo đảm tốt việc làm
và tăng thu nhập của người lao động. Doanh nghiệp Quân đội có thương hiệu,
chiếm lĩnh thị trường trong nước và vươn ra nước ngoài ngày càng nhiều, trở
thành đối tác kinh tế quốc tế có uy tín, góp phần đẩy mạnh công tác đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp quân đội đã và đang khẳng định rõ vị
thế trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự ổn định, phát triển kinh tế vĩ
mô, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo đảm an sinh xã hội.
Các đơn vị thường trực, đơn vị sự nghiệp có thu, cùng với
đặt trọng tâm vào thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, đã chủ động tổ chức bộ máy,
tận dụng năng lực dôi dư để tham gia sản xuất kinh tế gắn với nhiệm vụ chuyên
môn, góp phần cung cấp nguồn nhân lực, công nghệ và dịch vụ có chất lượng cho
xã hội. Trong đó, nhiều đơn vị đảm bảo được phần lớn chi phí thường xuyên, góp
phần tăng cường các hoạt động sự nghiệp, cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ,
công nhân, viên chức quốc phòng và người lao động. Hoạt động kinh tế đối ngoại,
xúc tiến đầu tư và thương mại được đẩy mạnh.
Công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng đảm bảo chặt chẽ,
đúng mục đích; đối với đất quốc phòng chưa sử dụng ngay cho nhiệm vụ quốc
phòng, được tận dụng vào hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế đảm bảo thực hiện
đúng quy định, lộ trình và kịp thời chấn chỉnh những sai sót.
Sáng ngày 12/7/2017, phát biểu tại buổi làm việcvới Quân cảng Sài Gòn - Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, thuộc Quân chủng
Hải quân, Quân đội Nhân dân Việt Nam, Đại tướng Ngô Xuân Lịch- Bộ trưởng
BQP đã khẳng định: quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là một
chức năng cơ bản, nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
thể hiện bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân Việt
Nam. Thực tiễn hơn 70 năm trưởng thành, phát triển của quân đội ta cho thấy
quân đội ta luôn hoàn thành nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác
và cũng là đội quân lao động sản xuất, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng
và phát triển đất nước.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh: quân đội tham gia xây
dựng kinh tế là kết hợp, phục vụ nhiệm vụ xây dựng quốc phòng, củng cố sức mạnh
quốc phòng, gia tăng tiềm lực của quốc gia, tích cực góp phần phát triển tính
tự chủ của đất nước trong trang bị khí tài quân sự, quốc phòng và trực tiếp tham
gia vào quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc
tế.
Những kết quả đạt được của Quân đội trong thực hiện nhiệm vụ
tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế có ý nghĩa quan trọng, không những góp phần
tăng cường tiềm lực quốc phòng, cải thiện đời sống của bộ đội, công nhân và
viên chức quốc phòng, người lao động, mà còn đóng góp tích cực vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước; qua đó, thể hiện sâu sắc
bản chất, truyền thống và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trên “mặt trận lao động sản
xuất”, củng cố niềm tin của nhân dân, của Đảng và Nhà nước đối với Quân đội.
2.
Hạn chế
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, Quân đội
vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót, như: nhận thức của một số cán bộ, chiến sĩ
về nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế chưa đầy đủ; trách nhiệm của
một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo có mặt còn hạn chế; cơ
chế quản lý, mục tiêu xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn, tiến độ xây dựng chậm so với quy hoạch đã được phê duyệt;
việc kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Quân đội
và hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa thường
xuyên và chặt chẽ; hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số doanh nghiệp đạt
thấp; tiến độ cổ phần hóa còn chậm so với yêu cầu; công tác quản lý, sử dụng
đất quốc phòng vào mục đích kinh tế của một số cơ quan, đơn vị chưa chặt chẽ…
Thực tiễn hoạt động sản
xuất, xây dựng kinh tế của quân đội và những kết quả đạt được đã khẳng định chủ
trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc huy động quân đội tham gia xây
dựng kinh tế; cho thấy Quân đội ta luôn quán triệt, thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao, vừa làm tròn vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển KT-XH, vừa tham gia tích cực, có hiệu quả
vào công cuộc đó. Mặc dù còn những khuyết điểm, thiếu sót, song với những kết
quả quan trọng đạt được trên “mặt trận lao động sản xuất” những năm qua cho
thấy, quân đội đã thực sự trở thành một nguồn lực của đất nước trong phát triển
KT-XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là lực lượng nòng cốt giải quyết
các vấn đề khó khăn về quốc phòng-an ninh, KT-XH trên các địa bàn
chiến lược, nơi biên giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc.
Thông qua sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã góp phần điều chỉnh lại lực
lượng sản xuất trên các vùng, miền, phù hợp với chiến lược phát
triển KT-XH và mục tiêu quốc phòng, tạo nên thế trận KTQP vững mạnh
trên các địa bàn chiến lược, nơi phên giậu của đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm,
từ xa; tạo ra nguồn của cải vật chất đáng kể cho xã hội, nguồn thu bổ sung cho
ngân sách quốc phòng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, tăng cường nguồn lực
cho phát triển. Đồng thời, tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho
xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ
quốc,...
III. Một số gải pháp chủ yếu
1. Đặc điểm tình hình
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục diễn
biến rất phức tạp, khó lường, khó dự báo, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, tác
động sâu sắc đến môi trường, quan hệ quốc tế, khu vực và Việt Nam. Đối với nước
ta, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; tình hình chính trị -
xã hội ổn định; kinh tế tiếp tục tăng trưởng; quốc phòng, an ninh được củng cố;
quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế được nâng lên. Tuy nhiên, kinh tế còn nhiều khó khăn, tình hình chính trị -
xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định; các thế lực thù địch
đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội, tăng cường tuyên truyền xuyên tạc, hạ thấp
uy tín Quân đội, chia rẽ Quân đội với Đảng, Quân đội với nhân dân, Quân đội với
Công an... Trước tình hình đó, Quân đội nhân dân cùng với việc tập trung nâng
cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, cần tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần cùng toàn
Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước.
2.
Giải pháp chủ yếu
Một là, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, quán triệt,
nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân và viên chức
quốc phòng, người lao động đối với nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế
của Quân đội.
Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cán bộ, công nhân và viên chức quốc phòng, người lao động; từ
đó, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để vươn lên hoàn thành nhiệm vụ tham
gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Nội dung giáo dục cần tập
trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, quan điểm của Đảng, chủ trương
của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất,
xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, cũng
như vai trò quan trọng của Quân đội trong việc tham gia xóa đói, giảm nghèo,
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là
trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Toàn quân
cần nhận thức sâu sắc: tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là một chức năng cơ
bản, nhiệm vụ chính trị quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, thể hiện bản
chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách đảm
bảo cho quốc phòng hạn hẹp, việc Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế
là cần thiết, quan trọng. Nhưng, Quân đội không làm kinh tế một cách đơn thuần,
mà luôn gắn với quốc phòng theo tư tưởng chỉ đạo: kết hợp kinh tế với quốc
phòng, quốc phòng với kinh tế.
Công tác tuyên truyền giáo dục về nhiệm vụ tham gia sản
xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội cần được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều
biện pháp, hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng loại hình đơn vị,
doanh nghiệp. Qua đó, để bộ đội và nhân dân thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của
nhiệm vụ này và thực chất của vấn đề Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh
tế, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; đồng thời, phản bác, làm thất bại mọi
sự xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội,
phản động nhằm vào Quân đội ta.
Hai là, tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ sản
xuất, xây dựng kinh tế.
Đây là vấn đề nguyên tắc và là nhân tố quyết định thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ, đảm bảo cho mọi hoạt động tham gia sản xuất, xây dựng kinh
tế của Quân đội đúng định hướng chỉ đạo, đạt hiệu quả cao. Các đơn vị trong
toàn quân, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện
nghiêm túc các nghị quyết về quân đội tham gia sản xuất phát triển kinh tế-xã
hội, trên cơ sở đó, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt bằng
nhiều biện pháp đồng bộ, đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình thực hiện, các đơn vị, doanh nghiệp Quân đội
cần nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng,
quốc phòng với kinh tế, thực hiện “Kết hợp tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội” mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
xác định, chấp hành nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, quy định của Bộ Quốc phòng.
Đối với các đơn vị kinh tế - quốc phòng, doanh nghiệp Quân
đội, trong thực hiện nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, phải đồng
thời coi trọng nhiệm vụ quốc phòng; khắc phục mọi biểu hiện, nhận thức lệch lạc
kinh tế đơn thuần, không được để xảy ra tình trạng hoạt động kinh tế ảnh hưởng
đến hoạt động quân sự, quốc phòng và ngược lại.
Ba là, tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn
chiến lược.
Triển khai dự án khu kinh tế - quốc phòng là chủ trương lớn,
đúng đắn của Đảng, Nhà nước; đồng thời, là sự thể chế hóa quan điểm kết hợp
kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong thực tiễn.
Thực tiễn hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng
đã khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược cả về kinh tế - xã hội và quốc
phòng, an ninh. Trong thời gian tới, cần tập trung nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ
xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng theo
Quy hoạch tổng thể xây dựng và phát triển các khu kinh tế - quốc phòng đến năm
2020, định hướng đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó,
coi trọng xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên hướng biển, đảo xa bờ, xây
dựng một số mô hình điểm tại các khu kinh tế - quốc phòng đang hoạt động để rút
kinh nghiệm, có giải pháp phù hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Các đoàn
kinh tế - quốc phòng phải luôn bám sát mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng khu kinh tế
- quốc phòng để bảo đảm hoạt động đúng hướng, hiệu quả, sẵn sàng chuyển trạng
thái khi có tình huống.
Bốn là, cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp Quân đội, gắn với giữ vững, nâng cao năng lực sản xuất
quốc phòng.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị có
liên quan cần quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ về
sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước; trên cơ sở đó, tập trung triển khai
thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 425-NQ/QUTW, trọng tâm là thực hiện tốt Đề
án “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội đến năm
2020”. Trong đó, kiên quyết cổ phần hóa, thoái vốn triệt để đối với doanh
nghiệp ít liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng; giải thể hoặc phá sản theo quy
định của pháp luật đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả.
Các doanh nghiệp Quân đội cần rà soát, xây dựng chiến lược
phát triển, chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với mô hình hoạt động; tích
cực đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực
cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng; đảm bảo dù sản xuất, kinh doanh ở đâu, lĩnh vực nào, cũng luôn chấp hành
nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Quân
đội, giữ vững bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, thương hiệu doanh nghiệp Quân đội, phấn
đấu trở thành những doanh nghiệp mạnh, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng.
Cùng với đó, toàn quân tiếp tục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm, thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng đất quốc phòng. Trong đó, đặc biệt
chú trọng quản lý, giám sát chặt chẽ việc sử dụng đất vào hoạt động sản xuất,
xây dựng kinh tế kết hợp thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; quản lý đất
quốc phòng tại các doanh nghiệp Quân đội và doanh nghiệp Quân đội thực hiện cổ
phần hóa hoặc giải thể, phá sản trong quá trình sắp xếp, đổi mới.
Năm là, chủ động đấu tranh, phản bác các luận điểm sai trái,
thù địch nhằm hạ thấp vai trò, uy tín, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân
dân.
Quân đội là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Do đó, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội, phản
động luôn xác định Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu trọng
điểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chúng. Để theo đuổi mục tiêu đó,
các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động tăng cường các hoạt động chống
phá Quân đội ta bằng mọi hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Cùng với việc
thúc đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ,
làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, ra sức
tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu Quân đội, làm lung lạc niềm tin của nhân dân
đối với “Bộ đội Cụ Hồ”. Đặc biệt, gần đây, các thế lực thù địch, phản động đẩy
mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc về Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng
kinh tế, quản lý, sử dụng đất quốc phòng, với mục đích làm “nóng” dư luận xã
hội, hiểu sai lệch hoặc không đầy đủ về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân
đội.
IV.
Đấu tranh chống quan điểm "Quân đội không được làm kinh tế, chỉ tập trung
vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc"
Trong
thời gian qua, lợi dụng Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) ra Nghị quyết về “Tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, một số
trang mạng xã hội đã liên tiếp đăng tải những bài viết xuyên tạc, phủ nhận về vai
trò của quân đội tham gia vào hoạt động kinh tế, đưa ra những luận điệu dưới
dạng mật mờ như: “quân đội làm kinh tế – phúc và họa”, để hướng lái dư luận
theo quan điểm sai trái rằng: “quân đội không nên làm kinh tế”.
Các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, chúng kêu gọi quân đội không được làm kinh tế, chỉ
tập trung vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng cho rằng nếu quân đội tham gia
hoạt động sản xuất kinh tế sẽ nảy sinh tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc
lợi và làm suy yếu sức mạnh quân đội. Hoặc cho rằng, nay đất nước đã phát triển,
quân đội không phải làm kinh tế và ưu tiên tập trung cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu như quân đội các nước tư bản. Đây là âm mưu vô cùng thâm độc, phủ
nhận chức năng, vai trò của quân đội từ bản chất.
Chúng ta phải hiểu rằng Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế gắn với bảo
đảm quốc phòng, an ninh là chủ trương chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng,
Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống
kinh tế-xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tế-xã
hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng-an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế
với quốc phòng-an ninh, quốc phòng-an ninh với kinh tế trong từng chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế-xã hội và trên từng địa
bàn”. Tại Điều 68, Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế,
kinh tế với quốc phòng, an ninh”. Tại khoàn 3, Điều 5 (Nguyên tắc hoạt động quốc
phòng), Chương 1 (Những quy định chung) của Luật Quốc phòng năm 2005 xã định:
“Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng; giữa
tăng cường quốc phòng với phát triển kinh tế-xã hội”
Quân đội
tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội
được Đảng và Bác Hồ giao, đó là “Đội quân chiến đấu, quân đội công tác và đội
quân lao động sản xuất”, thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội.
Nhìn lại chặng đường hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội,
chúng ta hết sức phấn khởi tự hàng rằng, trong bất cứ điều kiện nào, dù khó
khăn đến đâu, Quân đội ta cũng vừa chiến đấu, vừa lao động sản xuất, tham gia
xây dựng kinh tế bằng những hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp, hiệu quả.
Thông qua đó, khẳng định Quân đội ta không chỉ anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu,
mà còn rất cần cù, sáng tạo, hiệu quả trong lao động sản xuất. Những chiến công
và thành tích của Quân đội trong thực hiện chức năng “Quân đội lao động sản xuất”
- một yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, tăng cường mối quan hệ
gắn bó máu thịt với nhân dân và đã góp phần làm sáng đẹp hơn hình ảnh “Bộ đội Cụ
Hồ” trong tình hình mới.
Từ yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN trong tình hình mới. Quân đội ta tham gia sản
xuất, xây dựng kinh tế đã thực sự trở thành một nguồn lực quan trọng của đất nước
trong phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần
gia tăng thêm tiềm lực quốc gia; củng cố vị thế độc lập, tự chủ của đất nước và
công nghiệp quốc phòng, trang bị vũ khí, khí tài cho Quân đội; tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước thông qua sự hợp tác với
bên ngoài; là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề khó khăn về quốc phòng,
an ninh, kinh tế- xã hội trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng biển đặc quyền kinh tế của Tổ quốc...
Trong khi đó, bản chất các hoạt động sản
xuất, phát triển kinh tế của quân đội là thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể,
là kinh tế Nhà nước. Vì vậy, quân đội tham gia phát triển kinh tế là đúng pháp
luật, cũng là đúng với đường lối, chủ trương của Đảng.
Từ những vấn đề nêu trên mỗi cán bộ, chiến
sĩ trong Quân đội cũng như mỗi người dân Việt Nam cần phải bản lĩnh, cảnh giác
trước những luận điệu sai trái của thế lực thù địch. Luôn quán triệt và thực hiện
tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là
đường lối quân sự, quốc phòng. Tích cực tham gia đấu tranh với các luận điệu
sai trái, thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Nhận thức đúng chức
năng, nhiệm vụ, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước và phát huy những kinh nghiệm, kết quả đạt được, toàn quân
tiếp tục phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế,
xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản
xuất” trong thời kỳ mới. Qua đó, làm sâu sắc thêm bản chất cách mạng, truyền
thống của QĐND Việt Nam anh hùng, thiết thực góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Hồng Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét