Thời gian qua, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch đã kích động một số phần tử
cực đoan chống phá chính quyền; cố tình gieo rắc trong nhân dân về cái gọi là
“tự do tôn giáo tuyệt đối”. Đây là sự suy diễn, ngụy tạo nguy hiểm, cần được
đấu tranh cả về lý luận và thực tiễn.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền
cơ bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế
giới năm 1948 và được phát triển trong Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc. Theo đó, mọi người đều có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do
lựa chọn một tôn giáo, một tín ngưỡng; quyền tự do thực hành tín ngưỡng, tôn
giáo có thể bị giới hạn. Mặt khác, theo học thuyết về quyền pháp lý, không
có quyền tự do nào là tuyệt đối, không bị giới hạn, bởi con người và các quyền
của nó là một bộ phận của xã hội, chịu sự chế ước của xã hội, bị giới hạn bởi
các trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội… Và phải được ghi nhận trong hiến
pháp, được pháp luật bảo vệ.
Hiến pháp và những văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
cũng như trên thực tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được
Nhà nước ta tôn trọng, bảo đảm. Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi
cách tung ra những luận điệu cho rằng, ở Việt Nam quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo bị vi phạm, bóp nghẹt. Hơn thế nữa, họ còn vu cáo chính quyền Việt Nam hạn
chế các hoạt động tôn giáo, đàn áp tôn giáo, đòi thả tự do cho những người vi
phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo và ca ngợi những người này là “tù nhân
lương tâm”. Điều nguy hiểm là, lợi dụng việc một số tín đồ tôn giáo quá
khích, vi phạm pháp luật bị chính quyền xử lý, các “nhà dân chủ” phương Tây đã
lớn tiếng phán rằng: Việt Nam đàn áp tôn giáo, bắt bớ tín đồ chỉ vì họ bày tỏ
đức tin; từ đó, đòi quyền tự do tôn giáo “không thể bị giới hạn”... Đây là sự
vu cáo trắng trợn, đòi hỏi phi lý, nhằm mượn cớ tự do tôn giáo để kích động các
tín đồ chống phá Đảng và Nhà nước. Thực tiễn đã chứng minh, ở nhiều quốc gia có
nền kinh tế phát triển, như: Nhật Bản, Áo, Đức… quan niệm về tự do tín ngưỡng,
tôn giáo luôn đặt trong mối quan hệ với nhà nước và pháp luật. Ví dụ ở Đức,
Điều 9 (Khoản 2) của Hiến pháp nước này đã quy định: hoạt động của một tổ chức
tôn giáo có thể bị giới hạn hay bị cấm nếu như mục đích và hoạt động của tổ
chức đó vi phạm các quy định của luật hình sự hay chống lại chế độ xã hội đã
được xác định trong Hiến pháp.
Cũng như mọi nhà nước trên thế giới, Nhà nước Việt Nam có
toàn quyền quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo.
Theo Luật Nhân quyền quốc tế, Nhà nước ta có ba nghĩa vụ chính: tôn trọng, bảo
vệ và thực hiện các quyền con người nói chung và quyền tự do tôn giáo nói
riêng. Theo đó, Nhà nước luôn tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm trên thực tế việc
thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Về trách nhiệm bảo
vệ, Nhà nước thực thi quyền ngăn chặn sự vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của bên thứ ba. Trong nghĩa vụ thực hiện, Nhà nước có những biện pháp,
chế tài nhằm hỗ trợ cho công dân được hưởng đầy đủ các quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Ngoài ra, Nhà nước còn chủ động đưa ra các kế hoạch, chính sách,
chương trình cụ thể để mọi công dân được hưởng mức cao nhất các quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy, việc Nhà nước hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách về vấn đề tôn giáo, không phải là để “can thiệp”, “hạn chế” tự do
tôn giáo như một số người lầm tưởng, mà chủ yếu nhằm bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân được tốt hơn, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước
nhanh, bền vững./.
Thanh Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét