Nếu không có “diễn biến hòa bình” có thể sẽ không có “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có thể nói“diễn biến hòa bình” là cái có trước, sinh ra và quyết định đến âm mưu, thủ đoạn của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Với bản chất phản động, thù địch và chống cộng, song khác với
các chiến lược quân sự, chiến tranh xâm lược, bạo động vũ trang, can thiệp quân
sự và lật đổ trước đây, chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch lại diễn ra dường như rất “ngọt ngào”, “êm thấm”, “lặng lẽ”, đúng với bản
chất và âm mưu, thủ đoạn “phi vũ trang” diễn tiến một cách “hòa bình”, “không
tiếng súng” mà rất hiệu quả. Để thực hiện được mục đích của nó, “diễn biến hòa
bình” cũng chi phối và quyết định cả đến các âm mưu, thủ đoạn của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” bên trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa.
Nhằm phá Đảng Cộng sản
cầm quyền, nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng bộ máy chính quyền và công cụ pháp
lý, sức mạnh vũ trang của nó bị động, bất ngờ và tê liệt trước “diễn biến hòa
bình”, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cũng áp dụng luôn những âm
mưu, thủ đoạn xâm nhập, lan truyền, câu móc, kết nối, xây dựng từng con người
đến các tổ chức chống phá bên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa một
cách âm thầm, lặng lẽ, kín đáo, song có sự lan tỏa, kết nối chặt chẽ với nhau
bằng những quan hệ hết sức bí mật từ bên ngoài với bên trong của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Đến lượt nó, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng chịu
sự tác động và chi phối bởi các âm mưu, thủ đoạn này, song có những “bước
tiến”, tinh vi và kín đáo hơn. Khi sức, lực và diện chưa đủ lớn để chống phá,
các cá nhân, nhóm và tập thể “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường có những
hình thức, thủ đoạn “biến hình” hết sức kín đáo, tinh vi che đậy bản chất thoái
hóa, biến chất của mình; đôi khi là “trở thành” cá nhân, lực lượng “tiến bộ”,
“tích cực” và “cấp tiến”, ra sức “ủng hộ” đường lối, chủ trương, chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước.
Ngược lại, những kẻ,
bộ phận cơ hội, xu thời thì lặng lẽ tìm cách chui sâu, leo cao, chờ thời để
thực hiện mưu toan diễn biến, chuyển hóa từ cá nhân đến tập thể, từ bộ phận đến
toàn thể hệ thống chính trị. Cũng có những kẻ luôn trung dung, tìm cách luồn
lách giữa hai trường phái chính trị đối lập trên chính trường, ở cơ quan, đơn
vị, đoàn thể để tìm cách thâu tóm quyền lực, thu phục “nhân tâm”, tập trung các
lực lượng, sức mạnh, khi thời cơ đến sẽ thực hiện sự diễn biến, sự chuyển hóa
trong nội bộ cơ sở, địa phương, cao hơn là ở trung ương, nơi nắm giữ quyền lực
lãnh đạo, điều hành và quản lý nhà nước, nơi thể hiện ý chí và sức mạnh phản
đội của mình.
Sự quy định về âm mưu,
thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” đối với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là
tất yếu khách quan. Muốn làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa hay chí ít là một bộ
phận của nó bị tổn hại, thì tất yếu phải dùng đến các âm mưu, thủ đoạn hết sức
kín đáo, bí mật và thầm kín. Vì đây là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh sinh
tử giữa các lực lượng phản bội, đối lập, chống đối với các lực lượng của chính
quyền cách mạng, nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế không hẳn
chúng chỉ có những âm mưu, thủ đoạn như vậy, mà còn thể hiện cả những âm mưu,
thủ đoạn rất công khai, lộ liễu, đôi khi là tuyên bố rõ ràng, lập trường quan
điểm, thái độ chính trị và hành động thù địch để gây thanh thế, lôi kéo, chuyển
hóa, tập hợp lực lượng và dư luận ủng hộ cho những tư tưởng và hành động sai
trái của mình.
“Diễn biến hòa
bình” quyết định cấp độ, tốc độ, phương thức, hình thức, biện pháp, phương tiện
biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.Với bản chất và âm mưu, thủ đoạn
hết sức thâm độc, “không đánh mà thắng” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch và chống cộng gây ra đối với chủ nghĩa xã hội cho thấy, “diễn biến hòa
bình” còn quy định và quyết định đến cả cấp độ và tốc độ của “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong lòng các chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung, Việt Nam nói
riêng. Khi sự cộng hưởng của cả hai hành động xấu sa và thù địch này đạt đến sự
đồng điệu nhất định cả về mục đích, phương chiều, lực lượng và phương thức tiến
hành thì tất yếu “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” sẽ diễn ra với ở một cấp độ
cao hơn và tốc độ nhanh hơn sức tưởng tượng của chính những kẻ đã gây ra đối
với chế độ cộng sản. Đúng như các chuyên gia chống cộng một thời dưới chính
quyền G. Buts đã từng thừa nhận ở những thập niên hậu Xô viết.
Lịch sử đổ vỡ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô cho thấy, cấp độ ban đầu của sự đổ vỡ chỉ ở tầm thấp, có tính
chất đơn lẻ ở cơ sở, tổ chức, ngành, địa phương… mà các nước xã hội chủ nghĩa
thời đó thường gọi là các bất ổn về trật tự, an ninh xã hội. Sau những cuộc đảo chính bất thành ở Nam
Tư, Tiệp Khắc, Hunggari những thập niên 50-60 thế kỷ XX, những người nắm giữ
chính quyền ở đây mới nhận thức rõ thêm âm mưu, thủ đoạn tiến công bằng những
thủ đoạn phi vũ trang của các thế lực cơ hội, xét lại, chống cộng, phản động và
phản bội. Họ nhận thấy những dấu hiệu của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không
còn ở cấp độ, phạm vi địa phương, cơ sở nữa mà đã chuyển lên thành cấp độ cao hơn - những
cuộc chống đối, nổi dậy kết hợp biểu tình, bất bạo động với vũ trang tiến công trực diện vào trung ương đảng
và chính quyền nhà nước.
Đây chính là sự phát
triển mới về cấp độ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bên trong một bộ phận,
hay một bộ phận quan trọng trong lòng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô. Sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã dẫn đến nguy cơ phân
liệt, chia tách trong mỗi đảng cộng sản, đảng công nhân của một nước, hay mâu
thuẫn, bất hòa, xung đột giữa các đảng cộng sản và các nhà nước xã hội chủ
nghĩa với nhau. Ở trong nước, nó làm cho các đảng cộng sản phân rã thành các
nhóm, các phe phái đối lập nhau. Để tồn tại, họ đã mau chóng từ bỏ những nguyên
tắc mácxít về xây dựng đảng, chính quyền nhà nước của giai cấp vô sản.
Tốc độ của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” cũng phụ thuộc và chịu sự quy định của sự tác động bởi
các âm mưu, thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” ảnh hưởng đến mức độ nào đối với
chế độ xã hội chủ nghĩa của từng nước, hay cả hệ thống xã hội chủ nghĩa. Nếu
những năm 50-60 của thế kỷ XX, sự diễn biến chỉ ở tốc độ thấp, ở bộ phận nhỏ,
phải mất hàng chục năm mới làm ảnh hưởng, chuyển hóa một vài nước Đông Âu, thì
đến những năm 70-80, đặc biệt là những năm 90 đã diễn ra nhanh chóng, thời gian
chỉ tính bằng vài năm, vài tháng là toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa từ Cộng
hòa dân chủ Đức, đến Ba Lan đến Liên Xô cũng lần lượt bị đổ vỡ không gì chống
đỡ nổi. Sự sụp đổ đó kéo theo nhiều hệ lụy đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở
châu Á, như Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Lào cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng
và có tính hệ thống, dây chuyền. Điển hình là nhà nước xã hội chủ nghĩa Mông Cổ
sụp đổ; bạo loạn ở Thiên An Môn, Trung Quốc (1991); bạo động mang mầu sắc chính
trị, dân tộc và tôn giáo năm 2001 và 2004 ở Tây Nguyên, Việt Nam.
Sự chuyển hóa và tự
diễn biến còn diễn ra một cách công khai và ngang nhiên ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên, công chức và quần chúng nhân dân ở một số cơ sở, cơ quan, công sở
của hệ thống chính trị đến hệ thống kinh tế, văn hóa, xã hội. Đây thực sự là
một vấn đề đáng báo động và là một biểu hiện mới của cấp độ “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” đã và đang diễn ra ở nước ta, cần phải có những giải pháp và biện
pháp về chính trị, tư tưởng đi liền với tổ chức, pháp lý và kinh tế - xã hội để
ngăn chặn. Cấp độ biểu hiện của sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó cũng hoàn
toàn nằm trong và chịu sự chi phối bởi “diễn biến hòa bình”.
Hiện nay, sự tác động
và quy định của “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta
còn có những biểu hiện mới về cấp độ và tốc độ. Đó là, tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên ở các cấp hiện nay mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI xác định không xảy
ra đồng thời cùng một lúc, mà nó diễn ra và phát triển từ ít đến nhiều, từ nhẹ
đến nặng, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác
và từ cấp dưới lên cấp trên và cả cấp trên đến cấp dưới. “Quá trình diễn ra “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho họ
ngày càng xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, quan liêu, xa dân, làm suy giảm
dần lòng tin của Nhân dân đối với Đảng”[1]. Đây chính là nguy cơ
tiềm ẩn bên trong nội bộ Đảng đặc biệt nguy hiểm, liên quan đến sự tồn vong của
Đảng, và cũng là một trong những nguyên nhân của sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu trước đây. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là lợi dụng việc Đảng ta triển khai
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI - một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay và Văn kiện Đại hội XII của Đảng; đặc biệt là triệt để lợi dụng
các biểu hiện tiêu cực, sai lầm trong quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, tái
định cư, giải quyết việc làm của các cấp chính quyền, vấn đề môi sinh, môi
trường *Formosa)... để thực hiện nhiều thủ đoạn thâm độc và quyết liệt cả về
cường độ, nội dung cũng như phương pháp chống phá.
Nhìn chung, mỗi một
thời điểm lịch sử, mỗi một chế độ xã hội chủ nghĩa có một hoàn cảnh, điều kiện
riêng, song bao giờ “diễn biến hòa bình” cũng tìm cách tác động, quy định cả
cấp độ và tốc độ của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các chế độ
nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong đó Việt Nam - nơi được xác định là một trọng
điểm tiến công quyết liệt của chúng. Nhận thức được vấn đề này là cơ sở, tiền
đề để mọi cấp lãnh đạo, quản lý, mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
nâng cao tình thần cảnh giác và trách nhiệm phòng, chống đấu tranh chống nguy
cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa
bình” của chúng.
Nhằm mục tiêu lật đổ
và tiêu diệt chủ nghĩa xã hội thế giới, chủ nghĩa đế quốc, các lực lượng phản
động thù địch không từ bỏ bất cứ một phương thức, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm
nào. Để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng luôn cần đến, nhờ cậy
và chỉ đạo luôn cả các phương thức và hình thức biểu hiện của “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” từ bên trong các nước và chế độ xã hội đối lập với chúng. Tính chất quyết định của “diễn biến hòa bình” về phương thức,
hình thức, biện pháp, phương tiện thực hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
được thể hiện trên các vấn đề sau.
Quyết định phương thức
của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phương thức của “diễn biến hòa bình” cũng
như phương thức của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cách nói, cách thể hiện
một cách tổng quát và thực chất về cách thức và phương pháp tiến hành của những
âm mưu, thủ đoạn diễn ra một cách “hòa bình”, một cách “tự diễn ra’, một cách
“tự chuyển biến” từ từ, từ số lượng đến chất lượng, từ tư tưởng, lối sống của
con người đến tổ chức và thể chế của chế độ xã hội chủ nghĩa theo một chiều
hướng tiêu cực, làm cho họ, tổ chức và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa không
còn là họ, là nó nữa, mà chuyển thành những con người, tổ chức và thể chế chính
trị - xã hội đối lập - con người tư sản, tư tưởng tư sản, tư hữu, tổ chức và
thể chế đại diện cho những kẻ bóc lột, tước đoạn và chiếm đoạt sức lao động của
các giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nguồn: http://hocvienchinhtribqp.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét