Nhân danh đổi
mới, dân chủ, nhiều người hiện vẫn ra sức tuyên truyền rằng: “Đa đảng tốt hơn
một đảng vì các đảng sẽ phải cạnh tranh nhau trong việc giành phiếu bầu của
người dân. Đảng nào lạm quyền sẽ bị các đảng khác tố cáo, người dân sẽ không bỏ
phiếu ủng hộ nữa. Như vậy, người dân sẽ giám sát được quyền lực nhà nước, đó
mới thực sự là dân chủ”.
Mới nghe qua thì
thực là có lý. Song sự thật hệ thống chính trị đa đảng phái ở phương Tây ra đời
lại là nhằm mục đích kiểm soát phổ thông đầu phiếu, hay nói cách khác là vô
hiệu hóa quyền lực của lá phiếu bầu, chứ không phải nhằm mục đích giúp lá phiếu
bầu kiểm soát quyền lực nhà nước.
1. Vô hiệu hóa phổ thông đầu phiếu:
Khi có rất nhiều
đảng phái tham gia tranh cử thì các đảng phái phải làm gì? Họ sẽ phải thu hút
càng nhiều phiếu bầu càng tốt, tức là họ phải đưa ra cương lĩnh chính trị rất
“ôn hoà, trung lập” để thu hút được thật nhiều cử tri, họ phải tránh đưa ra các
nội dung gây xung đột. Ai thích tư bản thì có tư bản, ai thích làm thuê thì có
món làm thuê, ai thích trà đá thì có trà đá,... Tuy nhiên, những vấn đề thiết
thân với quyền lợi trực tiếp của các giai tầng trong xã hội thì lại là chuyện
khác, không được đề cập đến, ví dụ như việc tăng lương giảm giờ làm chẳng hạn,
bởi chuyện này sẽ gây xung đột giữa chủ và thợ, tạm gác lại đã để không ảnh
hưởng đến lượng cử tri ủng hộ. Các đảng phái sẽ đưa ra một tập hợp các vấn đề
hết sức chung chung và ít ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp đối với các nhóm
dân cư trong xã hội. Ngoài cử tri tự do thì đảng phải khi tranh cử cũng phải
tính đến việc liên minh với các đảng khác nữa để có đa số phiếu, khi đó họ sẽ
càng phải hạn chế các nội dung chính trị có thể gây ra xung đột với các đối tác
tiềm năng.
Hệ thống chính
trị đa đảng cạnh tranh dẫn đến cái sự ngược đời là thay vì tập trung vào những
vấn đề thiết thực đối với đời sống xã hội thì họ sẽ lại tập trung vào những vấn
đề nghe thì hay ho nhưng nội dung thì tào lao, chẳng ảnh hưởng đến quyền lợi
của ai cả.
Để có ưu thế
trong tranh cử thì các đảng phái buộc phải thu hút được một số lượng lớn cử
tri, điều này dẫn đến việc họ phải kết nạp tràn lan, khiến cho cử tri thuộc
đảng phái mất đi đặc tính chung, trở thành một đám đông lộn xộn, không thể
thống nhất về bất cứ điều gì. Ví dụ: Anh ủng hộ đồng tính? Tốt, hãy bỏ phiếu
cho tôi! Anh bảo vệ môi trường? Tốt! Hãy bỏ phiếu cho tôi! Anh ủng hộ nhà thời?
Tốt, hãy bỏ phiếu cho tôi! Anh ủng hộ công nghiệp nặng? Tốt, hãy bỏ phiếu cho
tôi!
(Vậy nên ở các
nước đa đảng, họ ra vào đảng như... đi chợ. Ví như Bolsonaro, tổng thống
Brazil, 30 năm hoạt động chính trị ông ta tham gia tới... 9 đảng khác nhau!).
Mặc dù nhà thờ thì phản đối đồng tính, môi trường thì phản đối công
nghiệp nặng, nhưng không có vấn đề gì hết, khi nắm quyền chúng tôi sẽ giải
quyết tất. Bằng cách nào ư? Chúng tôi sẽ phát huy dân chủ. Mọi người sẽ có
quyền lên tiếng. Phiếu bầu của mọi người sẽ quyết định vấn đề nào được ưu
tiên!!!
2. Cạnh tranh vì lợi ích riêng của đảng
phái:
Việc cạnh tranh
thu hút cử tri khiến các đảng phái chính trị phải thiết lập một bộ máy thường
trực để vận động quyên góp tài chính, tuyên truyền chính trị, tiếp xúc cử tri
và dàn xếp các xung đột. Điều này có nghĩa là họ phải tuyển dụng một bộ máy
nhân sự chuyên nghiệp cho những việc đó. Những người này chắc chắn không xuất
thân từ tầng lớp công nhân lấm lem dầu mỡ, họ phải có hiểu biết nhất định về
quản lý, làm công việc phức tạp có tính chuyên môn cao nên thường xuất thân từ
các gia đình giàu có và được đào tạo từ các cơ sở đào tạo danh giá về chính
trị, quản trị kinh doanh, quản lý công hay truyền thông.
Tóm lại, những
người quản lý chuyên nghiệp của đảng phái sẽ có xuất thân và nền tảng giáo dục
giống như chủ doanh nghiệp và giới thượng lưu chính trị. Lợi ích của giới quản
lý chuyên nghiệp trong đảng phái gắn liền với việc không ngừng mở rộng hoạt
động và ngân sách của đảng phái. Sự tương đồng về văn hóa và lợi ích giữa bộ
máy chóp bu của đảng phái với giới chủ doanh nghiệp tạo ra sự đồng cảm về lợi
ích giữa hai nhóm này.
Những người quản
lý chuyên nghiệp sẽ vô hiệu hóa vai trò của các thành viên cấp thấp hơn của
đảng phái, họ thực hiện mọi công việc và biến các thành viên cấp thấp hơn thành
cái máy nói thuần túy. Mặt khác, để đảm bảo đảng có hình ảnh đẹp đẽ trong mắt
công chúng thì các xung đột, tranh cãi nội bộ phải bị dẹp bỏ, biến thành các
công việc bàn giấy thuần túy. Sự dân chủ được ca ngợi của hệ thống đa đảng tồn
tại được là nhờ vô hiệu hóa dân chủ trong nội bộ đảng.
Sự cạnh tranh
giữa các đảng phái trong việc nắm chính quyền không nhằm phục vụ cử tri như
người ta vẫn tưởng tượng, mà thực tế là phục vụ quyền lợi cho chính đảng phái
mà thôi. Mỗi khi nắm được chính quyền thì đảng phái sẽ mở rộng được hoạt động
của mình, thu hút được thêm cử tri, củng cố thêm các mối liên minh về chính trị
và kinh tế với các đối tác khác nhờ việc chiếm đoạt và ban phát một cách hào
phóng các nguồn lực tài nguyên quốc gia thông qua bộ máy nhà nước, kết quả là
toàn bộ nguồn lực quốc gia sẽ thuộc sở hữu của một thiểu số những người có khả
năng thao túng chính trị đứng sau các đảng phái.
Hệ thống đa đảng
cạnh tranh dẫn đến sự quan liêu hóa của bộ máy quản lý đảng phái, hoạt động vì
lợi ích của chính bản thân chứ không phải vì lợi ích của cử tri. Thành viên của
đảng phái bị mất giá, ý kiến của họ không mấy ảnh hưởng đến đường lối chính
sách của đảng, công việc duy nhất mà họ làm là đi bỏ phiếu khi đến kỳ bầu cử.
Bằng cơ chế cạnh tranh, hệ thống đa đảng vô hiệu hóa quyền lực của phổ thông
đầu phiếu và làm cho phổ thông đầu phiếu trở thành không gian an toàn cho chủ
nghĩa tư bản.
3. Phát triển các tổ chức xã hội dân sự
đánh thuê:
Hệ thống đa đảng
phương Tây thành công trong việc vô hiệu hóa phổ thông đầu phiếu, biến cử tri
thành cái máy bỏ phiếu đơn thuần, nhưng con người vẫn là con người, họ không
nói được bằng cách này thì họ nói bằng cách khác. Từ những năm 1970 của thế kỷ
trước, ở phương Tây xuất hiện một loại hình phong trào xã hội mới, có đặc tính
là gây xung đột và không đòi quyền chính trị, ví dụ như đòi quyền cho người
đồng tính, bảo vệ môi trường, chống hạt nhân... Các phong trào này ban đầu là
sự phản ứng đối với thất bại của hệ thống đa đảng, thu hút được sự chú ý của
rất nhiều cử tri, nhưng sau đó những tổ chức này nhanh chóng trở thành cánh tay
nối dài cho đảng phái. Một mặt họ độc lập với đảng phái trong việc thu hút các
thành viên nên không ảnh hướng đến các đảng phái, mặt khác họ lại cần đến các
đảng phái để có thể đưa các vấn đề của họ lên chương trình nghị sự của nhà
nước. Các phong trào này nhanh chóng tạo ra các tổ chức xã hội dân sự chuyên
nghiệp và trở thành một kênh bán phiếu bầu cho các đảng phái. Thông qua các cơ
chế tài trợ phức tạp và lắt léo, các tổ chức xã hội dân sự dần dần phụ thuộc
vào đảng phái, ngược lại đảng phái sử dụng họ làm vũ khí để cạnh tranh trong
bầu cử, phổ biến là gom phiếu bầu và tấn công các đảng đối thủ. Việc các phong
trào xã hội dân sự xung đột với đảng phái hay chính quyền là biểu hiện cho thấy
sự thống nhất của nó với hệ thống đa đảng.
4. Sự ra đời và phát tác của các đảng
tội ác, lưu manh:
Những nhóm cử
tri nhỏ có các khuynh hướng cực đoan khi thất vọng với các đảng phái lớn thì sẽ
tìm đến các đảng nhỏ cực đoan, đặc điểm của các đảng phái cực đoan này là họ
hoàn toàn không có cơ hội trong việc tranh cử vì chỉ thu hút được rất ít cử
tri. Song với số cử tri thu hút được ấy họ có thể bán phiếu bầu cho các đảng
lớn hơn, dùng nó để tham gia liên minh hoặc cản trở các đảng lớn đạt được đa số
phiếu cần thiết nhằm đòi hỏi quyền lợi cho bản thân, nói ngắn gọn là tống tiền
các đảng lớn. Chính vì vậy ở các nước đa đảng phương Tây có sự tồn tại của
những đảng phát xít, họ công khai tuyên truyền cho các chế độ tội ác một cách
hợp pháp.
Các đảng tội ác
tồn tại như là một sản phẩm của chế độ đa đảng và chúng hoàn toàn có thể trở
thành đảng nắm quyền khi gặp các điều kiện xã hội thích hợp. Do vậy, chế độ đa
đảng không loại bỏ mà ngược lại còn dung dưỡng các đảng tội ác, trở thành môi
trường màu mỡ cho tội ác được hợp pháp hóa.
5. Độc đảng phát xít luôn là hệ quả của
cơ chế cạnh tranh đa đảng trong xã hội tư bản:
Hệ thống đa đảng
có phải là sự phủ nhận hệ thống độc đảng không? Không, sự cạnh tranh giữa các
đảng phái có thể dẫn đến tình trạng một đảng đủ lớn mạnh để áp đảo các đảng
phái khác. Hệ thống đa đảng cạnh tranh có thể dẫn đến chế độ độc đảng và độc
tài trên thực tế. Đảng Quốc Xã của phát xít Đức lên nắm quyền hoàn toàn hợp
pháp thông qua bầu cử và vô hiệu hóa Quốc Hội Đức bằng đạo luật trao toàn bộ
quyền lập pháp cho Hitler.
Chế độ độc đảng
không phủ nhận chế độ đa đảng, ngược lại là sản phẩm của sự cạnh tranh đa đảng.
Sự thắng thế của các đảng cực hữu phát xít trên thế giới vừa qua tiếp tục chứng
minh điều này. Những bệnh tật của hệ thống độc đảng phát xít đều là thừa kế từ
hệ thống đa đảng.
Tóm lại, việc
tuyên truyền rùm beng và phán xét một cách chung chung kiểu như “đa đảng là tốt
vì nó giúp người dân kiểm soát quyền lực nhà nước” chỉ là lời lẽ ngụy biện để
lừa phỉnh nhân dân, là luận điệu sáo rỗng của giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu
tư sản luôn mơ tưởng đoạt quyền lực của nhân dân.
Đối với Đảng
cộng sản Việt Nam, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định và cũng là căn dặn: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì
Ðảng không có lợi ích gì khác”. Chúng ta không cần và không chấp nhận đa đảng
là bởi:
Thứ nhất, những luận điệu đòi đa nguyên đa đảng ở
Việt Nam đều do các đối tượng bất mãn với chế độ do nhân dân làm chủ, các thế
lực trong và ngoài nước thù địch với lợi ích chung của dân tộc Việt Nam, không
đại diện cho nguyện vọng của đông đảo nhân dân Việt Nam. Những người tuyên
truyền đòi đa đảng ở Việt Nam không hề nhằm muốn Việt Nam phát triển, nhân dân
Việt Nam được ấm no, hạnh phúc, mà họ muốn Việt Nam lâm vào tình cảnh hỗn loạn,
xung đột, từ đó xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng lái
Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành lực
lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng và nhân dân Việt Nam là sự lựa chọn của lịch
sử. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã phủ định đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
như một tất yếu tự nhiên. Nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân dân
lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc
và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã và đang khẳng định là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo cách mạng
và nhân dân Việt Nam. Nhân dân Việt Nam dưới sự chỉ đạo dẫn dắt của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được sống tự do trong hòa bình và nền chính trị ổn định nhất thế
giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những
quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là
độc lập, tự do cho dân tộc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi
quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các thành phần kinh tế; quyền tự do làm
giàu theo pháp luật, phát huy dân chủ gắn liền với giữ vững kỷ cương xã hội; là
sự phát triển trong đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc; là sự tiến bộ trong
giáo dục, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ và
phát triển toàn diện con người…
Những thành tựu không thể phủ nhận của đất nước trong suốt các giai đoạn
cách mạng đã khẳng định và ngày càng củng cố vững chắc hơn vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp phát triển của dân tộc Việt Nam.
Những ngày này,
chuẩn bị đến Đại Hội Đảng các cấp, nhiều trí thức cơ hội cùng những kẻ lưu manh
chính trị lại ra rả kêu gọi “tôi muốn đa đảng”!
Có lẽ nên cho chúng sang Ukraina, Thái Lan, Mỹ Latinh, Trung Đông, hoặc ngay cả Pháp để được hưởng tự do đa đảng!
Có lẽ nên cho chúng sang Ukraina, Thái Lan, Mỹ Latinh, Trung Đông, hoặc ngay cả Pháp để được hưởng tự do đa đảng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét