Lý luận chính trị có vai trò đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng nói
chung, công cuộc đổi mới đất nước nói riêng. Nhưng hiện nay, còn một bộ phận
cán bộ, đảng viên vẫn nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận
chính trị, dẫn đến những tác hại khôn lường. “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa,
tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị...”(1) là
một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoáivề tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã nêu.
Biểu
hiện cụ thể là:
Một là, không nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tính cách là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng, hoặc tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Chủ
nghĩa Mác - Lênin là học thuyết hoàn bị, khoa học và cách mạng, làm cơ sở cho
nhận thức thế giới và đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân và nhân dânlao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những
quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam, kết quảcủa sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Nhờ có lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa cách mạng nước ta phát triển
từ tự phát thành tự giác; là nền tảng để Đảng ta có đường lối chính trị đúng
đắn lãnh đạo quá trình cách mạng.
Không nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt của lý luậnchính
trị là không hiểu quá trình vận động khách quan của cách mạng Việt Nam, vai trò
của lý luận tiên phong và Đảng tiên phong trong quá trình ấy. Cán bộ, đảng viên
có nhận thức sai lệch này dẫn đến sẽ “...lười học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh...”(2) hoặc học (kể cả ở những nơi đào tạo lý
luậnchính trị cao cấp) để hoàn chỉnh bằng cấp, đủ điều kiện để được quy hoạch,
bổ nhiệm... Việc tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, cho
rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, thực chất là chưa hiểu
nguồn gốc hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, và do đó, cũng
chính là, coi nhẹ, thậm chí, phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những
sai lệch trong nhận thức đó nếu không được khắc phục sẽ khiến cán bộ, đảng viên
“Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Hai là, không nhận thức đượcý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương, đường
lối của Đảng và chính sách,pháp luật của Nhà nước.
Chủ
trương, đường lối của Đảng là hình thức lãnh đạo cao nhất và tập trung nhất của Đảng đối với
Nhà nướcvà xã hội. Chủ trương, đường lối đúng đắn,sáng tạo của Đảng trong công cuộc đổi mới 30 năm qua đã đưa nước ta “đạt đượcnhững thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đườngxây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”(4). Để đạt được điều đó, có vai trò của Nhà nướctrong
việc cụ thể hóa chủ trương, đường lốicủa Đảngthành chính sách, pháp luật phù
hợp, đượcnhân dân ủng hộ, thực thi.
Cán bộ, đảng viênkhông nhận thức đượchết ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ
trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước dẫn đến “...
lười học tập... chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luậtcủa Nhà nước”(5). Do đó, cán bộ, đảng viên sẽ nói và làm không
đúng theo nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, thậm chí vi phạm pháp
luật và dẫn suy thoái tư tưởng chính trị, “xa rời tôn chỉ, mục đíchcủa Đảng;
không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức
lệch lạc, quan điểm sai trái”(6).
Ba là, nghiên cứu, học tập lý luận chính trị không gắn với thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thống nhất giữalý luậnvới thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn là thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông...”(7). Như vậy, cán bộ, đảng viên trong nghiên cứu, học tập
lý luậnchính trị mà tách rời thực tiễn là một sai lệch lớn, làm giảm ý nghĩa và
tầm quan trọngcủa lý luận chính trị.
Lý luận
khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bằng
con đường tổng kết thực tiễn. Do đó, thực tiễn là cơ sở của đường lối và chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nghiên cứu lý luận, xây dựngđường lối
và chính sách là để trả lời những câu hỏi cho phát triển đất nước. Qua thực
tiễn để đánh giá sự sát thực của lý luận, hiệu quả lãnh đạo, quản lýcủa Đảng và
Nhà nước. Ngược lại, thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi
lý luận khoa học.
Trong
thời kỳ đổi mới, bên cạnh những thành tựu quan trọng trong đổi mới tư duy lý
luận, vẫn còn những hạn chế không nhỏ đối với nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn. Đó là công táclý luận còn lạc hậu trên một số mặt, chưa
theo kịp được sự phát triển của thực tiễn đang vận động nhanh chóng, phức tạp;
chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đất nước đặt ra. Chất lượng các
sản phẩm nghiên cứu khoa học chưa cao. Lý luận chưa làm tốt chức năng định
hướng cho hoạt động thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Công tác lãnh đạo, quản lýcác hoạt động lý
luận, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luậnchính trị trong nhà
trường chậm đổi mới, chưa theo kịp trình độ phát triển và yêu cầu của xã hội.
Các cán
bộ, đảng viên trong học tập lý luận chính trị chưa có sự so sánh, liên hệ, vận
dụng vào vào thực tiễn đất nước, địa phương; nghiên cứu khoa học chỉ khai thác
kinh điển một cách thuần túy, không liên hệthực tiễn để chỉ rõ đượcnhững giá
trị lâu bền hay cần bổ sung, thậm chí đã bị thực tiễn vượt qua... Khi thực hiện
đường lối, chính sáchcủa Đảng, Nhà nước, không vận dụng sáng tạo, phù hợp với
hoàn cảnh cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị... để đạt kết quả tốt nhất.
Việc
nghiên cứu, học tập, lý luậnchính trị tách rời thực tiễn của cán bộ, đảng viên
dẫn đến bệnh kinh nghiệmvà bệnh giáo điều. Kinh nghiệm có vai trò to lớn trong
nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Nhưng, bệnh kinh nghiệmlà nhận
thức và hành động nhấn mạnh thuần túy đến kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là tất
cả, coi thường và hạ thấp lý luận; tuyệt đối hóa những kinh nghiệm cá biệt, cụ
thể, biến chúng thành những kinh nghiệm phổ biến áp dụng ở mọi nơi, mọi lúc.
Bệnh giáo điềulại là nhận thức và hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường
và hạ thấp thực tiễn, áp dụng lý luậnkhông tính đến điều kiện lịch sử cụ thể.
Căn bệnh này dễ dẫnđến sai lầm, thất bại trong nhận thức và hoạt động.
Bốn là, không nhận thức được trách nhiệm của hoạt động lý luận chính trị
trong đấu tranh tư tưởng.
Đấu tranh tư tưởnglà nhiệm vụ quan trọng của hoạt động
lý luậnchính trị. Không thấy hết được trách nhiệm này là làm giảm ý nghĩa, tầm
quan trọng của lý luậnchính trị, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Trong
hơn 30 năm đổi mới, cán bộ, đảng viên đã góp phần tích cực đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; chống “diễn biến hòa bình” và những
thoái hóa, biến chất trong nội bộ. Nhưng công tác này vẫn còn nhiều hạn
chế:thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sát
thực tiễn và chưa linh hoạt; công tácgiáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởngcơ hội, những quan điểm mơ hồ sai trái chưa
được chú trọng; chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức,
lối sống; phạm vi tác động của công tác tư tưởngcó dấu hiệu bị thu hẹp; đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn bị động, hiệu quả thấp.
Đấu
tranh tư tưởngkhông phải là công việcriêng của Đảng, mà là trách nhiệm chung
của cả hệ thống chính trị, của từng cán bộ, đảng viên. Hoạt động lý luậnchính
trị không chú ý đến đấu tranh tư tưởnglà bỏ trống “trận địa của mình”, mở
đườngcho âm mưu “diễn biến hòa bình”, là “gieo mầm” cho những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Đấu
tranh tư tưởngbao gồm nhiều đối tượng, lĩnh vực khác nhau, là nhiệm vụ rất khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi ngườicán bộ, đảng viênphải hiểu rõ đường lối, chính
sáchcủa Đảngvà pháp luật của Nhà nước; vừa có nhiệt tình cách mạng, có bản lĩnh
dám đấu tranh, dám chiến đấu với những quan điểm sai trái, phản động để góp
phần giữ vững chế độchính trịvà con đườngđi lên CNXH của nướcta.
Để khắc
phục tình trạng trên, cần thực hiện đồng bộcác giải pháp, nhiệm vụ sau:
Một là, về nhận thức. Nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viênvề vị trí, vai tròcủa công tác lý luậnchính trị. Đổi mới, nâng
cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ, đảng viên trẻ, để nắm vững, nhất trí với các mục tiêu,
quan điểm của công cuộc đổi mới, xây dựngvà bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, về nghiên cứu lý luận. Cán bộ, đảng
viên, tùy cương vị của mình, có trách nhiệm nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm rõ những giá trịbền vững của chủ nghĩa
Mác - Lênin, những vấn đề cần bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn
đất nước và thời đại. Đẩy mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với triển
khai sâu rộng, có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Cán bộ, đảng viên, tùy theo vị trí, điều kiện của
mình phải tích cực góp phần làm sáng tỏ những nhận thức, quan niệm về CNXH và
con đườngđi lên CNXH của nướcta, tập trung vào những vấn đề cấp bách thực tiễn
đang đòi hỏi.
Ba là, về giáo dục lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng
giáo dục lý luậnchính trị trong hệ thống các trường chính trị, các trường đại
học và trung học chuyên nghiệp trong cả nước. Khắc phục sự lạc hậu của chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, đảm bảo tính cơ bản, hệ thống, hiện
đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tăng cường đào tạo lại, nâng cao trình độ
khoa học, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ nghiên
cứu, giảng dạy các bộ môn Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bốn là, gắn lý luận với thực tiễn. Cán bộ,
đảng viên góp phần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Coi trọng
việc tổng kết thực tiễn trong nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và trong hoạt động
của các cấp ủy đảng. Coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các
cấp, các ngành. Gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu và chọn lọc
những thành tựu khoa học của nhân loại.
Công tác
lý luận chính trị phải góp phần vào giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội
bức xúc, chống chuyển hóa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, ngăn chặn sự suy
thoái về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải hăng hái, chủ động đấu tranh
trên mặt trận tư tưởng, lý luận; làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”,
âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững độc lập chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét