Đánh giá tổng
thể quan điểm, lập trường, hành vi của Trung Quốc trên biển Đông hơn một thế kỷ
qua, đặc biệt là từ năm 1956 đến nay, sẽ thấy những gì mà nước này đang làm đều
nằm trong chiến lược tổng thể nhằm củng cố và mở rộng tham vọng, yêu sách phi
lý và phi pháp của họ về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển
Đông theo một lộ trình trái pháp luật quốc tế. Lộ trình này gồm sáu bước.
Thứ nhất, Trung
Quốc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực xâm lược và chiếm đóng trái phép các thực
thể địa lý trên biển Đông. Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược Hoàng Sa năm 1956,
1974 và bảy thực thể ở Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam năm 1988, 1995;
đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm bãi cạn Scarborough năm 2012.
Thứ hai, bồi
đắp, cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo. Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo nhân tạo
trên bảy thực thể ở Trường Sa một cách trái phép gồm: Chữ Thập, Gạc Ma, Tư
Nghĩa, Vành Khăn, Ga Ven, Châu Viên và Xu Bi thành các đảo nhân tạo. Đến năm
2018, sau khi hoàn tất quá trình bồi đắp đảo nhân tạo, tổng diện tích bồi đắp
các đảo nhân tạo này đã lên tới khoảng 13,21 km2 (tập trung chủ yếu trên ba đá
là Vành Khăn, Xu Bi và Chữ Thập).
Thứ ba, Trung
Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo song song với việc xây dựng cơ sở vật chất hạ
tầng núp bóng “công trình dân sự” nhằm đánh lừa dư luận quốc tế như xây hải
đăng, âu tàu dân sinh trên đảo. Trên thực địa, Trung Quốc đã biến các đảo nhân
tạo thành các “pháo đài” quân sự hiện đại trên biển được trang bị cả máy bay
ném bom chiến lược, tên lửa phòng không, tên lửa hành trình… làm cơ sở cho các
hoạt động gây hấn, lấn chiếm trên biển Đông của nước này trong hiện tại và
tương lai.
Thứ tư, Trung
Quốc ra yêu sách vùng biển 12 hải lý xung quanh đảo nhân tạo. Trên thực tế,
trong và sau khi xây dựng, Trung Quốc tuyên bố và ngăn chặn tàu của các quốc
gia trong khu vực và thế giới hoạt động trong giới hạn 12 hải lý xung quanh các
đảo nhân tạo.
Thứ năm, Trung
Quốc đưa người đến ở (thực chất là các hạm đội tàu cá được vũ trang hóa) và yêu
sách các vùng biển mở rộng gồm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các
đảo nhân tạo như các đảo tự nhiên đáp ứng các quy định tại Điều 121 của UNCLOS.
Dẫu Trung Quốc thừa biết rằng luật pháp quốc tế nói chung và UNCLOS nói riêng
không cho phép và không thừa nhận đảo nhân tạo có quy chế pháp lý như đảo tự
nhiên (đảo nhân tạo không thể có các vùng biển mở rộng như các đảo tự nhiên mà
chỉ có vùng an toàn không quá 500 m theo quy định tại khoản 5 Điều 60 của
UNCLOS nếu chúng được xây dựng hợp pháp) nhưng những gì mà Trung Quốc đã tuyên
bố và đang gây hấn với Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính - Vũng Mây thời gian
qua đã chứng minh nước này đang “hiện thực hóa” yêu sách phi pháp này ngay
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cuối cùng, Trung
Quốc muốn liên kết ba vị trí tiền tiêu, chiến lược đặc biệt quan trọng án ngữ
hành lang phía đông nam của biển Đông gồm đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa để nắm “yết hầu” địa chính trị, quân sự, kinh tế, thương
mại, hàng hải, hàng không của khu vực và thế giới. Chính vì vậy, mọi hoạt động
của Trung Quốc trong thời gian gần đây đều nhằm mục đích thôn tính hoàn toàn
quần đảo Trường Sa để liên kết trọn vẹn ba điểm tiền tiêu chiến lược này. Từ
đó, Trung Quốc muốn kiểm soát toàn bộ biển Đông, hiện thực hóa “đường chữ U
chín đoạn” phi pháp, tiến tới “độc chiếm biển Đông”, là toan tính rất nguy hiểm
mà Trung Quốc thực hiện./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét