Thứ Ba, 26 tháng 11, 2019

NHỮNG BƯỚC ĐI CHIẾN LƯỢC, KINH TỞM CỦA TRUNG QUỐC ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG.





Đánh giá tổng thể quan điểm, lập trường, hành vi của Trung Quốc trên biển Đông hơn một thế kỷ qua, đặc biệt là từ năm 1956 đến nay, sẽ thấy những gì mà nước này đang làm đều nằm trong chiến lược tổng thể nhằm củng cố và mở rộng tham vọng, yêu sách phi lý và phi pháp của họ về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển Đông theo một lộ trình trái pháp luật quốc tế. Lộ trình này gồm sáu bước.
Thứ nhất, Trung Quốc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực xâm lược và chiếm đóng trái phép các thực thể địa lý trên biển Đông. Trung Quốc dùng vũ lực xâm lược Hoàng Sa năm 1956, 1974 và bảy thực thể ở Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam năm 1988, 1995; đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm bãi cạn Scarborough năm 2012.
Thứ hai, bồi đắp, cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo. Trung Quốc tiến hành xây dựng đảo nhân tạo trên bảy thực thể ở Trường Sa một cách trái phép gồm: Chữ Thập, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Vành Khăn, Ga Ven, Châu Viên và Xu Bi thành các đảo nhân tạo. Đến năm 2018, sau khi hoàn tất quá trình bồi đắp đảo nhân tạo, tổng diện tích bồi đắp các đảo nhân tạo này đã lên tới khoảng 13,21 km2 (tập trung chủ yếu trên ba đá là Vành Khăn, Xu Bi và Chữ Thập).
Thứ ba, Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo song song với việc xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng núp bóng “công trình dân sự” nhằm đánh lừa dư luận quốc tế như xây hải đăng, âu tàu dân sinh trên đảo. Trên thực địa, Trung Quốc đã biến các đảo nhân tạo thành các “pháo đài” quân sự hiện đại trên biển được trang bị cả máy bay ném bom chiến lược, tên lửa phòng không, tên lửa hành trình… làm cơ sở cho các hoạt động gây hấn, lấn chiếm trên biển Đông của nước này trong hiện tại và tương lai.
Thứ tư, Trung Quốc ra yêu sách vùng biển 12 hải lý xung quanh đảo nhân tạo. Trên thực tế, trong và sau khi xây dựng, Trung Quốc tuyên bố và ngăn chặn tàu của các quốc gia trong khu vực và thế giới hoạt động trong giới hạn 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo.
Thứ năm, Trung Quốc đưa người đến ở (thực chất là các hạm đội tàu cá được vũ trang hóa) và yêu sách các vùng biển mở rộng gồm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo nhân tạo như các đảo tự nhiên đáp ứng các quy định tại Điều 121 của UNCLOS. Dẫu Trung Quốc thừa biết rằng luật pháp quốc tế nói chung và UNCLOS nói riêng không cho phép và không thừa nhận đảo nhân tạo có quy chế pháp lý như đảo tự nhiên (đảo nhân tạo không thể có các vùng biển mở rộng như các đảo tự nhiên mà chỉ có vùng an toàn không quá 500 m theo quy định tại khoản 5 Điều 60 của UNCLOS nếu chúng được xây dựng hợp pháp) nhưng những gì mà Trung Quốc đã tuyên bố và đang gây hấn với Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính - Vũng Mây thời gian qua đã chứng minh nước này đang “hiện thực hóa” yêu sách phi pháp này ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cuối cùng, Trung Quốc muốn liên kết ba vị trí tiền tiêu, chiến lược đặc biệt quan trọng án ngữ hành lang phía đông nam của biển Đông gồm đảo Hải Nam, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa để nắm “yết hầu” địa chính trị, quân sự, kinh tế, thương mại, hàng hải, hàng không của khu vực và thế giới. Chính vì vậy, mọi hoạt động của Trung Quốc trong thời gian gần đây đều nhằm mục đích thôn tính hoàn toàn quần đảo Trường Sa để liên kết trọn vẹn ba điểm tiền tiêu chiến lược này. Từ đó, Trung Quốc muốn kiểm soát toàn bộ biển Đông, hiện thực hóa “đường chữ U chín đoạn” phi pháp, tiến tới “độc chiếm biển Đông”, là toan tính rất nguy hiểm mà Trung Quốc thực hiện./.

 Văn Thành 











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét