Thượng úy Không quân Vũ Xuân Thiều báo cáo:
“Bắn B-52 địch không rơi tại chỗ, tôi xin lao thẳng vào nó”. Ngày 28/12/1972,
anh đã lao thẳng chiếc MiG-21 của mình vào B-52 Mỹ. Hoa Kỳ công nhận đây là
chiếc máy bay cuối cùng bị Không quân miền Bắc bắn hạ tại chỗ.
Người phi công đã đi vào huyền thoại như một
con đại bàng phát sáng trong đêm, người đã biến MiG-21 thành “quả tên lửa thứ
3” diệt B-52 của Mỹ: liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ tranh nhân dân Vũ Xuân
Thiều.
Vũ Xuân Thiều sinh tháng 2/1945, là con thứ 7 trong một
gia đình có 10 người con, quê gốc ở Hải Hậu, Nam Định. Ông Vũ Xuân Sắc, bố của
Thiều là một chí sĩ yêu nước, sớm giác ngộ và có nhiều đóng góp cho cách mạng.
Phát huy truyền thống của gia đình, khi đang
là sinh viên khoá 7, ngành Vô tuyến điện, Trường Đại học Bách khoa, Thiều đã
cùng 10 người bạn cùng trường làm đơn tình nguyện và được tuyển chọn vào Quân
chủng Phòng không - Không quân. Một tháng sau khi có quyết định, ngày
22/6/1965, các anh theo đoàn tàu lửa từ ga Hàng Cỏ hành trình qua Liên Xô đi
học lái máy bay tiêm kích phản lực MiG-21.
Từ nước bạn, Thiều và các bạn mình được tin:
Mỹ đã dùng máy bay B-52 oanh tạc miền Bắc Việt Nam ở đèo Mụ Giạ, Quảng Bình.
Các phi công Việt Nam cùng khoá học với Thiều, ai nấy đều thể hiện quyết tâm,
ngày đêm luyện tập để nhanh chóng về nước, tiêu diệt nhiều máy bay Mỹ, tìm
cách bắn rơi B-52.
CẢM TỬ LẬP CHIẾN CÔNG LỚN
Với thành tích học tập xuất sắc, năm 1968,
Vũ Xuân Thiều về nước, nhận nhiệm vụ chiến đấu tại Trung đoàn 921. Sau đó, anh
được điều về phi đội 5. Đây là đơn vị chuyên bay và chiến đấu ban đêm, gồm
những phi công có trình độ kỹ thuật, chiến thuật cao, có lòng dũng cảm, mưu
trí..
Thời gian này, máy bay B-52 Mỹ liên tục ném
bom rải thảm trên đường mòn Hồ Chí Minh, nhằm ngăn chặn những hoạt động chi
viện cho chiến trường miền Nam. Cuối năm 1971, một số sĩ quan Không quân được
cử đến Quảng Bình, Vĩnh Linh nghiên cứu hoạt động chiến đấu của máy bay B.52.
Một số đơn vị rađa cũng được điều đến đây nhằm bảo đảm cho các đơn vị Phòng không
- Không quân đánh thắng B-52 Mỹ.
Đêm 20/11/1971, được thông báo có B-52, Vũ
Đình Rạng nhận lệnh xuất kích từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An), phóng tên lửa trúng
chiếc B-52 Mỹ, do phi công Kalp Wetter Haln điều khiển. Chiếc B-52 không rơi
tại chỗ nhưng bị hỏng, phải hạ cánh xuống sân bay Nakhon Phanomb ở Thái Lan,
sau đó phải tháo rời đưa về Utapao. Cuối tháng 12/1972, Kalp Wetter Haln bay
trên một chiếc B-52 khác, bị tên lửa ta bắn rơi tại Hà Nội, bị bắt làm tù binh,
đã khai với Việt Nam, trường hợp máy bay B-52 của Kalp bị Mig-21 của Vũ Đình
Rạng bắn rơi.
Ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon thông
qua kế hoạch dùng máy bay B-52 đánh Hà Nội và Hải Phòng. Tối 27/12, được Sở chỉ
huy thông báo có B-52 từ phía Mộc Châu đến, lúc 22 giờ 30, phi công Phạm Tuân
nhận lệnh cất cánh từ sân bay Yên Bái, phát hiện mục tiêu, đã tăng tốc độ, đạt
1200km/h, bay lên độ cao 10.000m, phóng hai tên lửa ở cự ly 2.000m, tiêu diệt
chiếc B-52 số 2 rồi vòng gấp sang trái, hạ cánh an toàn xuống sân bay Yên Bái.
Rút kinh nghiệm đánh B-52 của phi công Vũ Đình Rạng và
Phạm Tuân, thực hiện quyết tâm: “Bắn rơi B-52, bắt sống phi công Mỹ”, Thượng
úy, phi công Vũ Xuân Thiều báo cáo với Trung đoàn trưởng: “Lần sau khi phát
hiện B-52, xin phép cho tôi được xuất kích tiêu diệt. Bắn mà B-52 không rơi tại
chỗ, tôi sẽ xin lao thẳng vào nó”.
Không thể tiếp tục trực đánh B-52 ở các sân
bay phía Bắc, Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng sân bay Cẩm Thủy, Thanh Hóa, cho
MIG trực chiến để tạo sự bất ngờ. Ngày 28/12/1972, phi công Vũ Xuân Thiều được
lệnh đưa máy bay bí mật cơ động vào sân bay Cẩm Thủy để sẵn sàng đánh B-52.
Đến 21 giờ 41 phút, Sở chỉ huy lệnh cho phi công 26 tuổi,
Vũ Xuân Thiều cất cánh, với tên mật: XB-90, lên đánh vào một tốp B-52 bay vào
đánh Hà Nội. Chiếc MiG-21 gầm lên, chạy đà rồi nhanh chóng vút lên không
trung... 15 phút sau, Vũ Xuân Thiều được dẫn bay hướng về vùng trời Yên Châu
(Sơn La). Nhưng Thiều phát hiện thấy B-52, khi đang ở độ cao 10km, góc vào 90
độ, cự ly chỉ 4km, anh phải nhìn bằng đèn, vì không dám bật rađa, để tránh các
máy bay F-4, F-111 bảo vệ B-52.
Không thể bay vượt qua rồi mới vòng lại công
kích, bởi như vậy đối phương sẽ phát hiện ra có MiG và kịp thời đối phó. Mặc dù
ở cự ly gần, Thiều vẫn xin lệnh công kích. Quả tên lửa thứ nhất rồi quả thứ hai
phóng về hướng chiếc B-52. B-52 bị trúng đòn, nhưng vẫn ngoan cố lao về phía
trước, nhằm thực hiện ý đồ trút bom xuống Hà Nội. Không để những trái bom tội
ác địch ném xuống Hà Nội, nhưng đạn đã hết, vũ khí duy nhất của Thiều lúc này
là tinh thần cảm tử.
Thiều xin lệnh tấn công tiếp. Các sĩ quan ở Sở chỉ huy
chưa kịp đưa ra chỉ thị gì, thì trên bầu trời Sơn La, một tiếng nổ long trời lở
đất, liền đó một quầng lửa bùng lên sáng rực giữa đêm đen. Tại Sở chỉ huy, các
sĩ quan điều khiển cũng nhận thấy tín hiệu của Thiều trên bản đồ bay đã hoàn
toàn biến mất.
Ngày 29/12/1972, tỉnh đội Sơn La báo cáo:
“Đêm qua, trên cánh đồng xã Tạ Khoa, Yên Châu, Sơn La, có một máy bay B.52 bị
cháy rơi, một MiG-21 cũng rơi gần đó”. Một số phi công trong phi đội bay đêm
nhận lệnh đến ngay Tạ Khoa, tìm đến khu vực B.52 của Mỹ bị cháy rơi. Chiếc
MiG-21 của Vũ Xuân Thiều nằm cách đấy không xa.
Vũ Xuân Thiều đã thực hiện ý chí tiêu diệt
địch khi cùng với chiếc MiG-21 biến thành quả tên lửa thứ 3 lao vào kẻ thù, như
lời anh từng nói. Thêm một chiếc B-52 bị không quân Việt Nam bắn rơi, chiến
công của phi công Vũ Xuân Thiều được ghi nhận. Sau này, vào năm 1994, anh được
truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
CẢM ƠN THẾ HỆ ĐI TRƯỚC, THẾ HỆ HUYỀN THOẠI!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét