Thời
gian qua, các thế lực phản động, cơ hội chính trị, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động
chống phá nhằm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" thúc đẩy
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng. Các thế
lực chống chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc luôn chĩa mũi nhọn vào Đảng, tập
trung sức phá hoại nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng. Thủ đoạn họ thường
dùng là xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phủ nhận sự hy sinh và
công lao của những người cộng sản, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng,
đòi thực hiện nhân quyền và dân chủ kiểu tư sản, đòi đa nguyên, đa đảng nhằm
tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ lợi dụng những kẻ cơ hội, phản bội về
chính trị hoặc thoái hóa về phẩm chất, đạo đức để chia rẽ, làm suy yếu, phá
hoại Đảng từ bên trong. Để
thực hiện ý đồ thâm độc, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị đã
dùng các thủ đoạn:
Thứ
nhất, xuyên tạc, phủ nhận học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, cho
rằng lý luận Mác-Lênin chỉ đúng cho thời kỳ tư bản công nghiệp (nửa cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX), nay loài người đã qua giai đoạn văn minh công nghiệp,
văn minh khoa học kỹ thuật số nên lý luận của Mác – Ăng-ghen, Lênin đã trở nên
lỗi thời. Từ sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông Âu họ cho rằng đó là sự
bất cập của học thuyết, Việt Nam chủ trương xây dựng đất nước quá độ lên CNXH
là đi vào ngõ cụt, không có tiền đồ.
Thứ
hai, xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, thổi phồng những yếu kém,
khuyết điểm, quy mọi yếu kém do Đảng lãnh đạo; đòi đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập; đòi thành lập các tổ chức xã hội và đảng phái chính trị đối lập với
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ
ba, xuyên tạc lịch sử, “hạ bệ thần tượng”, phủ nhận thắng lợi lịch sử của Việt
Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đánh Mỹ.
Thứ
tư, xuyên tạc tình hình thực tế Việt Nam, vu cáo ta vi phạm dân chủ, nhân quyền,
cố tình dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các
dân tộc thiểu số.
Thứ
năm, bằng mọi cách tác động vào nội bộ ta, nhằm làm cho nội bộ nghi ngờ lẫn
nhau và nhân dân nghi ngờ Đảng. Cho Đảng kiên trì chế độ “tập trung dân chủ”
thực chất là “tập trung quyền lực” sẽ dẫn đến triệt tiêu dân chủ.
Với
âm mưu thâm độc và thủ đoạn tinh vi, thế lực phản động và thù địch ra sức khai
thác tất cả các vấn đề bất cập của đời sống kinh tế - xã hội nước ta, trong đó
đặc biệt chú ý đến những thông tin về đời sống chính trị. Đây là những thông
tin có ảnh hưởng rộng lớn, mạnh mẽ đến từng cá nhân trong xã hội. Một trong
những thủ đoạn của thế lực phản động và thù địch là ra sức phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong khi đó,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước và nhiều Văn kiện các Đại
hội Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Các
thế lực phản động và thù địch đưa ra quan điểm quy chủ nghĩa Mác-Lênin về tư
tưởng “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội”. Về vấn đề này, phải
thừa nhận, phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp không phải là
công lao của Mác. Mác từng viết: “các nhà sử học tư sản trước tôi rất lâu đã
trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó, còn các nhà
kinh tế học tư bản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh tế của giai cấp. Cái mới
mà tôi đã làm ra chứng minh rằng: Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những
giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; Đấu tranh giai cấp tất yếu
dẫn đến chuyên chính vô sản; Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ
tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”.
Như
vậy, Mác không coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội nói
chung mà chỉ là một động lực phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Trong
xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có giai cấp nên chưa có đấu tranh giai cấp, và
sau này trong tương lai khi xã hội không còn giai cấp nữa thì cũng sẽ không còn
đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử nhất
định của sự phát triển xã hội. Quan điểm khoa học về giai cấp và đấu tranh giai
cấp của chủ nghĩa Mác phản ánh một thực tế khách quan trong xã hội có phân chia
giai cấp, đó là sự đối kháng giữa các giai cấp: Bóc lột và bị bóc lột, thống
trị và bị trị, áp bức và bị áp bức. Do đó, đấu tranh giai cấp trong các xã hội
này là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy xã hội vận động, phát triển lên
những hình thái cao hơn. Chủ nghĩa Mác không bao giờ coi đấu tranh giai cấp là
động lực duy nhất trong xã hội có giai cấp. Ngoài động lực này, còn một loạt
động lực khác, như sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhu cầu, lợi ích, lý
tưởng, khoa học – kỹ thuật… Vì vậy không nên cường điệu động lực đấu tranh giai
cấp. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp phải
phù hợp với thực tiễn, điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc và phù
hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,
yêu cầu đoàn kết dân tộc nổi lên hàng đầu để tập hợp các lực lượng, các giai
cấp, các tầng lớp trong xã hội để cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã phê phán quan điểm giáo điều của một số người về đấu tranh giai cấp ở
Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai
cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”.
Chúng ta không được phép lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác-Lênin với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh giai cấp hoặc
quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp bạo lực,
hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để đấu tố, trấn áp những người không theo
đường lối của mình, có tính chất bè phái như đã từng xảy ra ở một số nước XHCN
trước đây.
Đảng
Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức mới về chuyên chính vô sản và đấu tranh
giai cấp. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989) lần đầu đã sử dụng khái niệm
“hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản” và sau
này rất ít sử dụng. Về đấu tranh giai cấp, Đại hội IX của Đảng nhận định: Mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai
cấp giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định
hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công
bằng xã hội; đấu tranh ngăn chặn những tư tưởng và hành động tiêu cực, hành
động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước
ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đại hội IX xác định động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực từ các
thành phần kinh tế của toàn xã hội. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,
là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết
toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích
của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Như vậy, Đảng ta không phủ nhận đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ, song quan niệm về đấu tranh giai cấp cũng như động lực
phát triển đất nước phù hợp hơn với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước, với nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
Chủ
nghĩa Mác-Lênin ngày nay vẫn là học thuyết tiên tiến của loài người, ngay một
số học giả tư sản cũng thừa nhận. Giắc Đê-ri-đa, nhà triết học nổi tiếng người
Pháp coi Mác không chỉ là nhà tư tưởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của
thế kỷ XXI. Ông khẳng định nhân loại không thể thiếu Mác được. Chương trình
“Thời đại chúng ta” phát trên sóng phát thanh radio 4 của đài BBC tại Anh đã tổ
chức thăm dò với 3 vạn phiếu phát ra. Kết quả trong số 20 triết gia vĩ đại được
đưa ra lựa chọn, Mác được chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước
đến nay. Giáo sư Đại học Tổng hợp Lancaste (Anh) Tê-ry Igle-tơn trong tác phẩm
“Tại sao Mác đúng” vẫn khẳng định tính đúng đắn của những quan điểm của Mác
trong điều kiện thế giới ngày nay. Ông phản bác ý kiến cho rằng “chủ nghĩa Mác
đã chết và không còn nhắc đến nữa”.
Việc
đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin để phủ nhận chủ nghĩa
Mác-Lênin là rất sai lầm về quan điểm và phương pháp, về lịch sử và lôgic. Bởi,
về mặt lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các giá
trị truyền thống tốt đẹp, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa Mác-Lênin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Chủ nghĩa
Mác-Lênin chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo,
phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới./.
Đinh Mười
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét